Chương : 14
Charlie và cuộc hành trình nguy hiểm
Ý định của Charlie là đi tới tiệm Ấm Đun cành nhanh càng tốt, nhưng có rất nhiều người trong thành phố muốn chặn đường nó. Dẫu thương tật và sứt sẹo đầy mình, Manfred Bloor vẫn có uy lực kinh khủng đối với những đứa trẻ được ban phép thuật khác. Joshua Tiplin là một trong vài đứa khâm phục hắn mê muội nhất và thằng này còn hơn cả sốt sắng giúp Manfred Bloor trả thù Charlie.
Manfred biết những con mèo lửa là thủ phạm gây ra những thương tích ghê hồn cho hắn, nhưng chúng làm thế là để bảo vệ Charlie, vì vậy Charlie phải bị trừng phạt. Ngoài ra, còn có vấn đề Asa nữa. Manfred vẫn chưa từ bỏ ý đồ “Sói Hoang”, như tất cả mọi người gọi Asa. Thêm vài tuần nữa trong ngục tối thôi, Manfred tính toán, là Asa sẽ trở lại như xưa: một sinh vật hủy diệt hoang dã, sẵn sàng tuân thủ mọi mệnh lệnh của Manfred mà không đắn đo ... trừ phi Charlie Bastory tìm ra cậu bé người sói và phóng thích nó.
Charlie nhận thức rõ là có những kẻ nguy hiểm đang ẩn núp trong thành phố, nhưng nó không biết chúng ẩn ở đâu, và phải mất mấy phút nó mới hay mình đã chạy về hướng ngược lại với hướng mình định đi. Nhưng đến lúc đó thì đã quá trễ cho nó xoay chuyển tình thế.
Charlie dừng chạy. Nó đang đi xuống một dãy cầu thang gỗ hẹp rí dẫn vô một ngõ hẻm tối đen như mực. “Mình đang làm gì ở đây thế này?” Nó tự hỏi. “Mình đang định tới tiệm Ấm Đun cơ mà. Sao lại có cảnh này?” Nó cố quay đầu leo trở lên để ra ánh sáng, nhưng hình như nó bị tắc kẹt ngay trên cầu thang. Lối duy nhất nó có thể đi được là đi xuống.
“Hừ, tao sẽ không đi đâu!” Charlie hét vô bóng tối. “Tao sẽ đứng tại chỗ suốt đêm nếu phải thế.”
Cầu thang đánh võng. Charlie tì một tay bíu chặt vô tường vả hồn xiêu phách tán thấy nó tuột luốt dưới những ngón tay mình. Cầu thang đang dịch chuyển càng lúc càng xa nơi có ánh sáng. Khi cầu thang tăng tốc, Charlie bị quăng tới trước, đáp phịch xuống mặt đá cứng lạnh. Chân cẳng nó nặng như chì, cố cựa quậy nhưng vô ích. Charlie cảm thấy mọi hơi thở trong người bị tống ra hết, và nó không còn đủ sức để mà hét lên.
Nỗi khiếp đảm khiến Charlie nhắm mắt lại. Rồi nó từ từ mở mắt ra. Charlie thấy một quầng sáng đằng trước, cách đó vài mét, phát ra từ một cái đèn lồng lớn, trông cổ xưa đặt ở dưới đất. Phía trên quầng sáng đó hiện ra ba bộ mặt được chiếu tỏ - những bộ mặt không cười xếp chung với bóng tối mịt mùng. Joshua Tiplin và hai chị em sinh đôi nhà Branko.
Dù đang lóa mắt, Charlie không cần tới một giây để nhận ra, năng lượng từ tính của Joshua kết hợp với siêu năng của hai chị em sinh đôi đã kéo nó vô con hẻm hiểm ác này. Bây giờ sức mạnh của chúng đã mạnh hơn trước, lại cấu kết với nhau nên chúng tạo ra một trường lực hầu như không gì phá nổi.
Không hiểu bằng cách nào, Charlie xoay xở bật được tiếng nói ra khỏi cơ thể đau như dần của mình. “Tụi bay muốn gì?”
“Tụi tao không muốn mày,” một trong hai chị em sinh đôi trả lời trong tiếng cười vỡ vụn.
“Mà mày phải hứa một lời,” đứa kia trong hai chị em sinh đôi tiếp, giọng con này đục sâu và hiếu chiến hơn.
“Một lời hứa?” Charlie rên rẩm.
Đến lượt Joshua nói, giọng cứng rắn, không thương xót. “Mày phải từ bỏ ý định ngu ngốc đi tìm Asa Pike.”
“Nếu tao không bỏ?” Charlie mấp máy qua kẽ răng.
“Không có nếu,” hai chị em sinh đôi đồng thanh. “Mày phải từ bỏ.”
Có tiếng lở đất rùng rùng phía trên Charlie. Nó quay đầu lại, đúng lúc thấy một tảng đá lớn bật văng ra khỏi vị trí của nó trong bức tường cao sát đấy. Charlie lùi bắn lại, giơ hai tay lên che đầu, chờ hứng một cú rơi không thể tránh vô giữa sọ.
Nhưng tảng đá đó không hề chạm đến nó. Một cơn gió bạo liệt quét xuống con hẻm; bị chụp cứng trên không trung, tảng đá trệch ra khỏi đường bay và bổ nhào xuống ngay bên cạnh Joshua Tiplin. Một tiếng thét chói óc vang lên khi Joshua bị nhấc hổng chân lên và bị xách đi mất. Hai chị em sinh đôi, bám dính vào nhau, cũng chịu chung số phận. Charlie có thể nghe thấy bàn chân chúng đạp những bức tường của ngõ hẻm trong khi chúng lộn tùng phèo trên không, gào rú tựa như những nừ thần báo tử.
Rồi một tiếng sấm đinh tai và một đám mây đen ngòm luộn cuộn trên đầu. Tiếng gào khóc của lũ trẻ trên không nhòa thành tiếng rú kinh hồn không ngừng mà dần bị nhấn chìm vô tiếng sấm và tiếng mưa rơi lộp độp xuống mặt đất.
Charlie cuộn mình thu lu thật thảm thương và chờ cơn bão đi qua.
Phải cần tới một nguồn năng lượng vô biên mới có thể tạo ra thời tiết hung hãn đến vậy, và chủ nhân gây ra nó khi xong việc thể nào cũng mệt nhừ tử cho mà xem. Anh ta nên để cơn bão tan chầm chậm hơn là bắt nó kết thúc đột ngột như thế.
Mãi cuối cùng, khi Charlie triệu hồi đủ can đảm mà ngóc đầu lên, nó nhận thấy cây đèn lồng, dù bị phủ trùm trong bão cát, vẫn còn sáng. Ai đó đã xịch cây đèn lại gần Charlie. Nó trông thấy hai cái cẳng dài bọc trong hai ống quần jean ướt nhẹp màu xanh dương. Hoảng sợ một trận tấn công khác, còn tàn khốc hơn trận nó vừa mới chịu đựng, mắt Charlie hãi hùng lướt dần lên trên. Nó thấy một cái áo khoác thủy thủ, một chiếc khăn quàng cổ màu xám, và trên chiếc khăn quàng, một gương mặt mỉm cười có mái tóc vàng dựng tua tủa tên đỉnh.
“Charlie!” Tancred gọi.
“Tancred,” Charlie thở dốc. “Là anh thật không?”
“Chứ còn ai. Em ổn chứ, Charlie?”
“Ừm, em chưa chết.” Charlie cố gượng đứng dậy nhưng cần có cánh tay của Tancred đỡ mới xong.
“Sao anh biết em ở đây?”
“Đi theo con bướm của em. Anh đã nhận ra nó ngay lập tức. Nó cuống quít bay vòng vòng quanh đầu anh, đâm húc vô má anh, nó còn cắn cằm anh khi nó nghĩ anh chạy chưa đủ nhanh. Ngay khi thấy khoảng không chơi vơi ở chỗ lẽ ra là cái cầu thang, anh biết có cái gì đó vô cùng khủng khiếp đang diễn ra.”
Charlie ngoái nhìn lại. Những bậc thang nằm thành một đống đổ nát, xa tít bên dưới so với mặt đường.
“Anh đã phải nhảy xuống.” Tancred săm soi một cái dằm đâm vô ngón tay cái của mình. “Tụi mình không thể ra khỏi đây bằng đường ấy được.”
“Hai chị em sinh đôi,” Charlie láp báp. “Bây giờ chúng quá... quá mạnh và máu lạnh. Còn Joshua thì ...”
“Chúng sẽ mất sức mạnh trong một thời gian.” Tancred cười ngoác. “Đi, Charlie. Tụi mình về nhà em nào.”
Cuối cùng cây nến trong lồng đèn đã cháy hết và hai thằng bé phải lò mò nhích tới trước, trong khi con bướm trắng chờn vờn ở trên đầu, soi đường cho chúng. Charlie cứ nơm nớp lo mình sẽ vấp phải một cái xác, nhưng chẳng thấy tăm hơi Joshua hay hai chị em sinh đôi đâu cả.
“Chúng đang nằm dưới một cánh đồng ở đâu đó,” Tancred nói. “Anh cố ý cho gió đủ mạnh để bốc chúng ra khỏi thành phố.”
Charlie kinh ngạc trước tài phép lạ thường của Tancred. “Em ước gì mình có thể làm được điều gì đó hữu ích,” nó lầm thầm.
Tancred vỗ lưng nó. “Em vẫn luôn làm điều có ích đấy thôi, Charlie. Anh cảm thấy xấu hổ phải thú thật với em là Kẹo Ngọt đã thổi cho anh lầm đường lạc lối một thời gian.” Anh nhìn con bướm sáng chóa lượn lờ như chờ chúng nhảy lên chụp bắt, rồi cười phá ra. “Em biết không, con bướm đó đã chỉ cho anh thấy ánh sáng.”
“Như thế nào?”
“Tracy thảy cho anh một tối hậu thư: ‘Đi theo con bướm dớ dẩn đó thì anh sẽ bị bỏ, Tancred Torsson’ – cô ta nói vậy đó. Vậy là không hay nhỉ? Anh đã thấy đúng con người cô ta, Charlie. Một cái đầu rỗng hấp dẫn.”
“Chị ấy rất đẹp,” Charlie nói, cố biện minh cho sự ly khai tạm thời của Tancred. “Vì vậy em có thể hiểu nỗi... nỗi...”
“Nỗi ám ảnh? Ờ, đúng, cô ta rất đẹp,” Tancred chua chát.
Cuối cùng chúng cũng leo lên được con đường nhộn nhịp những cửa hàng và ánh đèn sầm uất, Charlie dần cảm thấy mình lại thuộc về thế giới thực một lần nữa.
“Làm sao tụi mình tới được đường Piminy từ đây?” nó nói.
Tancred ngỡ ngàng. “Sao em muốn đi tới đó?”
Vì bây giờ Tancred đã tỉnh ngộ, cho nên, trong khi băng qua thành phố, Charlie vẽ lại cho anh thấy bức tranh toàn cảnh. Cũng chính thanh gươm đã khiến Tancred lưu ý,hệt như đối với Lysander.
“Một thanh gươm?” đôi mắt xanh da trời của Tancred sáng lên. “Oa! Và em nghĩ Hiệp Sĩ Đỏ có thể là kẻ mạo danh vì ông ấy đã đánh cắp áo choàng của nhà vua?”
“Em không biết chắc, Tanc. Em chỉ cảm thấy là mình phải cảnh báo cho bà Kettle.”
“Anh không thể đợi nổi để thấy tiệm bán ấm và gặp người thợ rèn này.” Tancred bắn vọt đi và Charlie phải cố cắm chạy để theo kịp anh.
Cơn bão vừa rồi đã nhốt phần lớn dân cư thành phố ở rịt trong nhà của họ. Lũ trẻ ở quán Cà Phê Thú Kiểng đinh ninh là Charlie đã trở về đường Filbert rồi, tất nhiên, nên thu gom thú cưng lại và đi về nhà chúng. Benjamin cực nhọc vật vã mà không tách được Hạt Đậu ra khỏi Chattypatra, nhưng ông Onimous đã thuyết phục được hai con chó bằng một gói bít-tết của chó cho Hạt Đậu mang về nhà, và một tô kem cho Chattypatra ở đằng sau quầy.
Dư âm của cơn bão còn nhấn nhá trên đầu Charlie và Tancred khi chúng tất tưởi chạy trên đường Piminy. Tancred phân bua rằng anh không thể kiềm chế được. “Nhưng thời tiết là một vỏ bọc để bảo vệ chúng ta, Charlie, em không cảm thấy thế sao?”
Có, Charlie cảm thấy gì đó chứ. Nó linh cảm một sự xung đột dữ dội ở đường Piminy, cứ như vừa có những lằn chiến tuyến được dựng lên vậy. Bao nhiêu thầy pháp đã từng sống ở đây? Ai trong số họ xứng danh con cháu Vua Đỏ, và ai dùng phép thuật để chống lại hàng xóm láng giềng của mình.
Khi chúng đi tới tiệm Đá, Tancred ghé mắt dòm vô cửa sổ. Anh rùng mình rụt sâu vào chiếc áo khoác mùa đông của mình. “Thử nghĩ coi, Charlie. Một đội quân đá chuyển động. Ai có thể đánh bại đội quân đó?”
Charlie không trả lời.
Bên ngoài tiệm bán cá, Tancred lại chùng chình lần nữa. Anh ngước nhìn cửa sổ phía trên tấm biển bôi bác. Charlie đã kể cho anh nghe những gì Emma đã thấy, nhưng dù gì Tancred vẫn cứ dừng lại. Ở đây, anh cảm thấy một kẻ thù mà mình sinh ra để đối đầu với hắn. Anh không biết mình và Dagbert có chung một tổ tiên bão tố: Petrello, người tạo bão, sương mù, và những dòng thủy triều chết người.
Charlie nhìn tấm biển hú hít trong gió. Nó giật cánh tay Tancred. “Đi thôi. Em muốn tới nhà bà Kettle.”
“Nó thậm chí không phải là một cái tiệm,” Tancred nhận xét. “Chẳng có gì để bán, cho dù bọn họ là ai chăng nữa. Nhưng anh cũng ngửi thấy mùi cá rõ ràng.” Anh lùi lại khỏi cửa sổ, tay bịt mũi.
Charlie không thể chậm trễ cuộc thăm viếng hơn nữa, nó vụt chạy tới tiệm Ấm Đun và gõ cửa rầm rầm. Tancred chạy tới với nó, chúng đợi vài giây rồi Charlie lại đập gõ tiếp, dộng hết sức bằng cái đập cửa hình chiếc ấm.
“Trời đất ơi, Charlie Bastory, cái gì đưa cưng trở lại đây thế? Bà đang bận tay.” Bà Kettle đứng ở ngưỡng cửa,tay khoanh trước ngực. Bà mặc áo liền quần lấm lem dầu mỡ và mặt bà dính đầy nhọ. Trông bà chẳng có ý muốn cho ai vô nhà cả.
“Xin lỗi, bà Kettle,” Charlie hấp tấp nói, “Nhưng có chuyện đã xảy ra, môth chuyện mà bà nên biết.”
Bà Kettle chồm tới trước và dòm dáo dác ngược xuôi con phố. “Cưng vô đây. Chúng ta không muốn cả lối phố biết chuyện của chúng ta. Ai đi cùng với cưng thế này?”
“Tên cháu là Tancred Torsson,” Tamcred tự giới thiệu, bước vô cửa hàng. “Cháu đang gây ra một chút bão mà nó hiện đang thổi qua cửa nhà bà.”
“Chút bão ư? Trận cuồng phong chết tiệt thì có. Chắc chắn cậu lợi hại đấy. Ta là Katya Kettle. Hân hạnh gặp cậu.” Bà lắc cánh tay Tancred nồng nhiệt đến độ anh phải giữ lấy vai mình, tưởng như cánh tay rời khỏi khớp xương đến nơi.
Khi theo bà Kettle vô căn phòng sau của bà, chúng nhận thấy có tiếng lạch cạch và tiếng gì rơi tõm phát ra từ hai phía bên hông chúng. Nhìn quanh, chúng thấy nắp của một cái ấm màu xanh dương cứ nhấc lên không lại rớt cạch xuống. Điều tương tự cũng diễn ra với một cái ấm đồng, rồi một cái ấm nhỏ bằng sắt.
“Chuyện gì thế ạ, bà Kettle?” Charlie hỏi.
“Chứ cưng nghĩ là gì hả, Charlie? Khối năng lượng tích tụ trên đường này dư sức thổi bay mái nhà của bà đi.” Bà Kettle ngồi xuống ghế, và thấm cái trán bóng lưỡng của mình bằng một miếng giẻ nhem nhuốc dầu.
“Bão tố của cháu thường không có tác động như thế,” Tancred nói, ngồi xuống bên cạnh người thợ rèn to lớn.
“Bão tố của cưng!” Bà cười buồn rầu với Tancred. “Đó chỉ là một phần thôi. Cái ác đang len lỏi trong thành phố này, cưng à. Đang nở rộ như một bông hoa ăn thịt người khổng lồ, và tất cả nảy sinh từ anh chàng Manfred Bloor trẻ tuổi hiểm độc. Sự thù hằng của hắn ghê gớm đến mức nó sẽ trấn áp chúng ta, trừ phi chúng ta phải làm gì đó để chống lại nó.”
“Có ai biết vầ thanh gươm bà đang rèn không?” Tancred hỏi, liếc nhìn cái ấm lớn đang run rầy mà Charlie quan sát nãy giờ.
Bà Kettle nhún vai thật rõ. “Ai biết được? Chúng biết những gì ta làm. Ai mà không nhận ra những tia lửa và tiếng quai búa vọng ra từ sau cái tiệm nhỏ của ta, nhưng chẳng bao lâu nữa hiệp sĩ sẽ có thanh gươm của ngài, và chúng ta sẽ thấy ...”
Charlie quay phắt lại. “Bà Kettle! Cháu không nghĩ bà nên đưa thanh gươm cho Hiệp Sĩ Đỏ.”
“Điều gì khiến cưng nghĩ vậy?” trông bà Kettle ngạc nhiên thực tình.
Charlie chật vật chuyển mối nghi ngờ của mình thành lời. “Hiệp sĩ trên cầu mặc áo choàng đỏ và ... và Gabriel Silk, gia đình anh ấy giữ áo khoác của Vua Đỏ, à, anh ấy nói có ai đó đã đánh cắp chiếc áo rồi; chiếc áo của nhà vua ấy.”
“Charlie Bastory!” Người thợ rèn nhìn nó phẫn nộ đến nỗi nó lùi lại dựa vô cái bàn để la liệt ấm. “Bị đánh cắp ư! Mượn, hay có lẽ đòi lại, nhưng không bao giờ ăn cắp. Điều gì khiến cưng nói như vậy?”
“Cháu không biết,” Charlie lảng tránh ánh mắt nghiêm khắc màu đồng của bà. “Nhưng một thanh gươm như thế, bà Kettle, sẽ bất khả chiến bại phải không? Rủi nó rơi vào bàn tay không thích hợp, thì nó sẽ nguy hiểm vô cùng.”
“Nó cần phải nguy hiểm, thằng bé khờ à. Những lời của Feromel ở trong đầu bà khi bà rèn thanh gươm. Chính pháp thuật của ngài tạo hình cho khối thép bân dưới tay búa của bà. Ngài đi cùng bà trong từng bước của quá trình này.”
“Nhưng giả sử hiệp sĩ đó là kẻ mạo danh thì sao?”
Người phụ nữ mở mắt nhìn nó trân trối, không tin nổi. “Cưng nghĩ là ta không biết ư?”
“Không phải,” Charlie nói yếu ớt. “Cháu chỉ giả sử thôi.”
Bà Kettle đứng lên và lại lau mặt lần nữa. “Hừ, nếu đó là điều cưng đến để nói với ta thì cưng phung phí thời giờ của ta rồi. Ta có việc cần làm, như mấy cưng thấy rõ rồi đấy.”
Đằng sau Charlie, cái ấm sắt khổng lồ rú lên những tiếng u u, phả hơi nước. Cái nắp ấm nặng nề bắn vọt lên không, rồi rơi oạch xuống đất một cái choang váng óc. Charlie định nhặt nó lên thì nhận thấy mặt trăng chiếu trong mặt nước đen trong lòng ấm. Nó nhìn kĩ hơn thì mặt trăng lướt khỏi khung cảnh, để rồi được thay thế bằng một vòng tròn lửa nhấp nhô.
“Đừng nhìn!” một giọng ra lệnh, nhưng ánh mắt của Charlie bị những hình ảnh thay đổi trong ấm giữ chặt lại. Bây giờ nó có thể thấy một người đàn ông bên bếp lửa, đang cho thêm cành khô vào ngọn lửa. Mình đang chu du, Charlie nghĩ, nhưng đây không phải lúc. Nó tuyệt đối không được... chu du vô trong đó!
Nó nghe thấy tiếng người luống cuống cảnh báo nó. Những bước chân đằng xa, một bàn tay chìa ra, nhưng những ngón tay bấu chặt vai nó lại nhẹ tênh như bụi.
Bây giờ bắt đầu chuyến lộn nhào, trôi lướt, chuệch choạc qua không gian mà Charlie vừa thích thú vừa kinh hoảng. Những giây đầu tiên của cuộc hành trình luôn luôn đáng sợ nhất, khi chân nó bị hổng khỏi thế giới nó đã biết để trôi tuột vô thế giới nó không biết.
Nó đáp xuống đông rơm chất chù ụ ở phía sau một căn phòng. Một cửa sổ nhỏ, cao trên tường, bao trọn vầng trăng tròn. Ánh mắt Charlie rê từ mặt trăng tròn đến người đàn ông đang nuôi ngọn lửa. Nó chưa bao giờ thấy người nào cao lớn và vai rộng đến thế. Ở ông toát lên sức mạnh vô song, và Charlie hi vọng ông ấy không thù địch, bởi vì rõ ràng ông có thể bóp một người như nó dễ như bóp một con rệp không được chào đón.
Ánh sáng duy nhất trong phòng tỏa ra từ ngọn lửa nhưng khi mắt Charlie quen với bóng tối, nó có thể thấy sàn nhà trống trơn, những bức tường gạch xám xịt, kít bồ hóng. Bên cạnh ngọn lửa là một cái ấm sắt to đùng, có lẽ đúng là cái ấm mà Charlie đã rơi vào.
Khi người đàn ông cời ngọn lửa, một đám tro bay tung mù khắp phòng và Charlie hắt xì.
“Lòng trung thành!” người đàn ông thét, quay khỏi đống lửa. Ông trố mắt nhòn Charlie, chột dạ. “Mi là cái gì? Phải là kẻ bọn chúng phái tới dò la ta?”
Charlie đứng run lẩy bẩy và, hắng giọng nói, “Ừm, không phải, thưa ngài. Cháu đến từ... từ, cháu là người chu du.”
“Người chu du?” Người đàn ông thả cây cời lửa xuống và đi về phaid Charlie, nheo mắt nhìn xuống nó một cách nghi ngại. “Một người chu du?” Ông lặp lại. “Giống như bà Amoret?”
“Bà Amoret?” Trí óc bấn loạn của Charlie quay mòng. “Con gái út của Vua Đỏ? Phải, cháu nghĩ cháu là hậu duệ của bà.”
“Quà tặng cho số mệnh của ta.” Người đàn ông vạm vỡ chộp lấy vai Charlie. “Hãy biết rằng ta là Feromel, và đây có lẽ là ngày cuối cùng của ta trên đời.”
“Ngày cuối cùng của ông? Tại sao?” Charlie hốt hoảng hỏi. “Sao lại vậy?”
“Chúng muốn một vật, nhưng không đời nào chúng sẽ có nó đâu. Hãy coi đây!” Từ một cái bàn ở góc phòng, Feromel nhặt lên một cái gói bọc vải đỏ. Giở miếng vải ra, ông để lộ một cái gươm sáng loáng. Tay cầm bằng vàng chạm khắc nhiều hình chim mắt cẩn đá ruby trên một bố cục hình viên kim cương. Thanh chặn ngang mang hình hai con báo có cánh với những đốm sáng bằng saphia.
Nước vàng cổ xưa ánh ngời và vẻ đẹp của cán gươm trên nền vải đỏ khiến Charlie thở hốc lên. “Cái này của Vua Đỏ phải không ạ?” nó thì thào.
Feromel mỉm cười. “Ta tin cháu là một trong những người đáng tin cậy.”
“Cháu hi vọng mình được như vậy,” Charlie nhiệt thành.
“Thế thì hãy biết rằng chính tay nhà vua đã trang trí cán gươm phép thuật này. Thanh gươm đã biến mất, ta hi vọng sẽ rèn một thanh khác, nhưng giờ thì quá trễ rồi.”
Một tiếng ầm vang như tiếng sấm dộng vô cánh cửa và Feromel thét. “Lẹ lên, chúng ta phải giấu nó đi.” Ông băng qua phòng, nhặt cây cời lửa lên và trao cho Charlie. “Hãy gạt ngọn lửa qua bên, cậu bé, trong khi ta làm phần còn lại.”
Cố hết sức để không run rẩy, Charlie cầm lấy cây cời lửa và đấy những cành khô đang cháy qua một bên.
Ông Feromel đeo đôi bao tay dài bằng da vào, rồi một tay nhặt cán gươm bọc trong gói vải lên, cầm chắc, tay kia ông thọc thẳng ra sau ngọn lửa và xê dịch một viên gạch ống khói.
Lại một đợt dộng thình thình xóc tai nữa khiến cánh cửa dày của người thợ rèn võng oằn vô trong. Hơi nóng hầm hập từ ngọn lửa táp vào làm nước mắt Charlie chảy dàn giụa, nhưng nó thấy rõ lỗ hổng đen trong bức tường gạch, và nó nhìn bàn tay đeo găng của ông Feromel, bị lửa cháy xém, đẩy gói vải đỏ vô cái hốc rồi kê một viên gạch đóng lại.
“Xong rồi, cậu bé. Cảm ơn cậu!” ông Feromel tháo đôi găng tay cháy sém ra và đấm thụp vô lưng Charlie.
Cánh cửa không còn chịu nổi sức đập từ bên ngoài nữa. Nó đổ ập vào phòng và ba khối hình khệnh khạng bước qua đống gỗ vụn: một người đàn ông đá, một phụ nứ đá lăm lăm dùi cui, cùng bức tượng thần lùn mà dựng bên ngoài ngôi nhà của bà cô Vernetia.
Dù vận hết sức lực phi thường của mình, ông Feromel cũng không tung nổi một cú đòn. Nắm đấm to xụ của ông nảy tưng khỏi những thân hình đá bạo tàn, đôi chân dài của ông ngã nhào dưới cái đầu bổ tới của thần lùn.
‘Đi đi, cậu bé! Hãy tự cứu mình!” ông Feromel kêu lên.
Bủn rủn tứ chi, Charlie cuống quít không biết phải đi đâu. Nó bị bỏ lại đằng sau vật duy nhất có thể đưa nó trở về - con bướm trắng của nó.
Ý định của Charlie là đi tới tiệm Ấm Đun cành nhanh càng tốt, nhưng có rất nhiều người trong thành phố muốn chặn đường nó. Dẫu thương tật và sứt sẹo đầy mình, Manfred Bloor vẫn có uy lực kinh khủng đối với những đứa trẻ được ban phép thuật khác. Joshua Tiplin là một trong vài đứa khâm phục hắn mê muội nhất và thằng này còn hơn cả sốt sắng giúp Manfred Bloor trả thù Charlie.
Manfred biết những con mèo lửa là thủ phạm gây ra những thương tích ghê hồn cho hắn, nhưng chúng làm thế là để bảo vệ Charlie, vì vậy Charlie phải bị trừng phạt. Ngoài ra, còn có vấn đề Asa nữa. Manfred vẫn chưa từ bỏ ý đồ “Sói Hoang”, như tất cả mọi người gọi Asa. Thêm vài tuần nữa trong ngục tối thôi, Manfred tính toán, là Asa sẽ trở lại như xưa: một sinh vật hủy diệt hoang dã, sẵn sàng tuân thủ mọi mệnh lệnh của Manfred mà không đắn đo ... trừ phi Charlie Bastory tìm ra cậu bé người sói và phóng thích nó.
Charlie nhận thức rõ là có những kẻ nguy hiểm đang ẩn núp trong thành phố, nhưng nó không biết chúng ẩn ở đâu, và phải mất mấy phút nó mới hay mình đã chạy về hướng ngược lại với hướng mình định đi. Nhưng đến lúc đó thì đã quá trễ cho nó xoay chuyển tình thế.
Charlie dừng chạy. Nó đang đi xuống một dãy cầu thang gỗ hẹp rí dẫn vô một ngõ hẻm tối đen như mực. “Mình đang làm gì ở đây thế này?” Nó tự hỏi. “Mình đang định tới tiệm Ấm Đun cơ mà. Sao lại có cảnh này?” Nó cố quay đầu leo trở lên để ra ánh sáng, nhưng hình như nó bị tắc kẹt ngay trên cầu thang. Lối duy nhất nó có thể đi được là đi xuống.
“Hừ, tao sẽ không đi đâu!” Charlie hét vô bóng tối. “Tao sẽ đứng tại chỗ suốt đêm nếu phải thế.”
Cầu thang đánh võng. Charlie tì một tay bíu chặt vô tường vả hồn xiêu phách tán thấy nó tuột luốt dưới những ngón tay mình. Cầu thang đang dịch chuyển càng lúc càng xa nơi có ánh sáng. Khi cầu thang tăng tốc, Charlie bị quăng tới trước, đáp phịch xuống mặt đá cứng lạnh. Chân cẳng nó nặng như chì, cố cựa quậy nhưng vô ích. Charlie cảm thấy mọi hơi thở trong người bị tống ra hết, và nó không còn đủ sức để mà hét lên.
Nỗi khiếp đảm khiến Charlie nhắm mắt lại. Rồi nó từ từ mở mắt ra. Charlie thấy một quầng sáng đằng trước, cách đó vài mét, phát ra từ một cái đèn lồng lớn, trông cổ xưa đặt ở dưới đất. Phía trên quầng sáng đó hiện ra ba bộ mặt được chiếu tỏ - những bộ mặt không cười xếp chung với bóng tối mịt mùng. Joshua Tiplin và hai chị em sinh đôi nhà Branko.
Dù đang lóa mắt, Charlie không cần tới một giây để nhận ra, năng lượng từ tính của Joshua kết hợp với siêu năng của hai chị em sinh đôi đã kéo nó vô con hẻm hiểm ác này. Bây giờ sức mạnh của chúng đã mạnh hơn trước, lại cấu kết với nhau nên chúng tạo ra một trường lực hầu như không gì phá nổi.
Không hiểu bằng cách nào, Charlie xoay xở bật được tiếng nói ra khỏi cơ thể đau như dần của mình. “Tụi bay muốn gì?”
“Tụi tao không muốn mày,” một trong hai chị em sinh đôi trả lời trong tiếng cười vỡ vụn.
“Mà mày phải hứa một lời,” đứa kia trong hai chị em sinh đôi tiếp, giọng con này đục sâu và hiếu chiến hơn.
“Một lời hứa?” Charlie rên rẩm.
Đến lượt Joshua nói, giọng cứng rắn, không thương xót. “Mày phải từ bỏ ý định ngu ngốc đi tìm Asa Pike.”
“Nếu tao không bỏ?” Charlie mấp máy qua kẽ răng.
“Không có nếu,” hai chị em sinh đôi đồng thanh. “Mày phải từ bỏ.”
Có tiếng lở đất rùng rùng phía trên Charlie. Nó quay đầu lại, đúng lúc thấy một tảng đá lớn bật văng ra khỏi vị trí của nó trong bức tường cao sát đấy. Charlie lùi bắn lại, giơ hai tay lên che đầu, chờ hứng một cú rơi không thể tránh vô giữa sọ.
Nhưng tảng đá đó không hề chạm đến nó. Một cơn gió bạo liệt quét xuống con hẻm; bị chụp cứng trên không trung, tảng đá trệch ra khỏi đường bay và bổ nhào xuống ngay bên cạnh Joshua Tiplin. Một tiếng thét chói óc vang lên khi Joshua bị nhấc hổng chân lên và bị xách đi mất. Hai chị em sinh đôi, bám dính vào nhau, cũng chịu chung số phận. Charlie có thể nghe thấy bàn chân chúng đạp những bức tường của ngõ hẻm trong khi chúng lộn tùng phèo trên không, gào rú tựa như những nừ thần báo tử.
Rồi một tiếng sấm đinh tai và một đám mây đen ngòm luộn cuộn trên đầu. Tiếng gào khóc của lũ trẻ trên không nhòa thành tiếng rú kinh hồn không ngừng mà dần bị nhấn chìm vô tiếng sấm và tiếng mưa rơi lộp độp xuống mặt đất.
Charlie cuộn mình thu lu thật thảm thương và chờ cơn bão đi qua.
Phải cần tới một nguồn năng lượng vô biên mới có thể tạo ra thời tiết hung hãn đến vậy, và chủ nhân gây ra nó khi xong việc thể nào cũng mệt nhừ tử cho mà xem. Anh ta nên để cơn bão tan chầm chậm hơn là bắt nó kết thúc đột ngột như thế.
Mãi cuối cùng, khi Charlie triệu hồi đủ can đảm mà ngóc đầu lên, nó nhận thấy cây đèn lồng, dù bị phủ trùm trong bão cát, vẫn còn sáng. Ai đó đã xịch cây đèn lại gần Charlie. Nó trông thấy hai cái cẳng dài bọc trong hai ống quần jean ướt nhẹp màu xanh dương. Hoảng sợ một trận tấn công khác, còn tàn khốc hơn trận nó vừa mới chịu đựng, mắt Charlie hãi hùng lướt dần lên trên. Nó thấy một cái áo khoác thủy thủ, một chiếc khăn quàng cổ màu xám, và trên chiếc khăn quàng, một gương mặt mỉm cười có mái tóc vàng dựng tua tủa tên đỉnh.
“Charlie!” Tancred gọi.
“Tancred,” Charlie thở dốc. “Là anh thật không?”
“Chứ còn ai. Em ổn chứ, Charlie?”
“Ừm, em chưa chết.” Charlie cố gượng đứng dậy nhưng cần có cánh tay của Tancred đỡ mới xong.
“Sao anh biết em ở đây?”
“Đi theo con bướm của em. Anh đã nhận ra nó ngay lập tức. Nó cuống quít bay vòng vòng quanh đầu anh, đâm húc vô má anh, nó còn cắn cằm anh khi nó nghĩ anh chạy chưa đủ nhanh. Ngay khi thấy khoảng không chơi vơi ở chỗ lẽ ra là cái cầu thang, anh biết có cái gì đó vô cùng khủng khiếp đang diễn ra.”
Charlie ngoái nhìn lại. Những bậc thang nằm thành một đống đổ nát, xa tít bên dưới so với mặt đường.
“Anh đã phải nhảy xuống.” Tancred săm soi một cái dằm đâm vô ngón tay cái của mình. “Tụi mình không thể ra khỏi đây bằng đường ấy được.”
“Hai chị em sinh đôi,” Charlie láp báp. “Bây giờ chúng quá... quá mạnh và máu lạnh. Còn Joshua thì ...”
“Chúng sẽ mất sức mạnh trong một thời gian.” Tancred cười ngoác. “Đi, Charlie. Tụi mình về nhà em nào.”
Cuối cùng cây nến trong lồng đèn đã cháy hết và hai thằng bé phải lò mò nhích tới trước, trong khi con bướm trắng chờn vờn ở trên đầu, soi đường cho chúng. Charlie cứ nơm nớp lo mình sẽ vấp phải một cái xác, nhưng chẳng thấy tăm hơi Joshua hay hai chị em sinh đôi đâu cả.
“Chúng đang nằm dưới một cánh đồng ở đâu đó,” Tancred nói. “Anh cố ý cho gió đủ mạnh để bốc chúng ra khỏi thành phố.”
Charlie kinh ngạc trước tài phép lạ thường của Tancred. “Em ước gì mình có thể làm được điều gì đó hữu ích,” nó lầm thầm.
Tancred vỗ lưng nó. “Em vẫn luôn làm điều có ích đấy thôi, Charlie. Anh cảm thấy xấu hổ phải thú thật với em là Kẹo Ngọt đã thổi cho anh lầm đường lạc lối một thời gian.” Anh nhìn con bướm sáng chóa lượn lờ như chờ chúng nhảy lên chụp bắt, rồi cười phá ra. “Em biết không, con bướm đó đã chỉ cho anh thấy ánh sáng.”
“Như thế nào?”
“Tracy thảy cho anh một tối hậu thư: ‘Đi theo con bướm dớ dẩn đó thì anh sẽ bị bỏ, Tancred Torsson’ – cô ta nói vậy đó. Vậy là không hay nhỉ? Anh đã thấy đúng con người cô ta, Charlie. Một cái đầu rỗng hấp dẫn.”
“Chị ấy rất đẹp,” Charlie nói, cố biện minh cho sự ly khai tạm thời của Tancred. “Vì vậy em có thể hiểu nỗi... nỗi...”
“Nỗi ám ảnh? Ờ, đúng, cô ta rất đẹp,” Tancred chua chát.
Cuối cùng chúng cũng leo lên được con đường nhộn nhịp những cửa hàng và ánh đèn sầm uất, Charlie dần cảm thấy mình lại thuộc về thế giới thực một lần nữa.
“Làm sao tụi mình tới được đường Piminy từ đây?” nó nói.
Tancred ngỡ ngàng. “Sao em muốn đi tới đó?”
Vì bây giờ Tancred đã tỉnh ngộ, cho nên, trong khi băng qua thành phố, Charlie vẽ lại cho anh thấy bức tranh toàn cảnh. Cũng chính thanh gươm đã khiến Tancred lưu ý,hệt như đối với Lysander.
“Một thanh gươm?” đôi mắt xanh da trời của Tancred sáng lên. “Oa! Và em nghĩ Hiệp Sĩ Đỏ có thể là kẻ mạo danh vì ông ấy đã đánh cắp áo choàng của nhà vua?”
“Em không biết chắc, Tanc. Em chỉ cảm thấy là mình phải cảnh báo cho bà Kettle.”
“Anh không thể đợi nổi để thấy tiệm bán ấm và gặp người thợ rèn này.” Tancred bắn vọt đi và Charlie phải cố cắm chạy để theo kịp anh.
Cơn bão vừa rồi đã nhốt phần lớn dân cư thành phố ở rịt trong nhà của họ. Lũ trẻ ở quán Cà Phê Thú Kiểng đinh ninh là Charlie đã trở về đường Filbert rồi, tất nhiên, nên thu gom thú cưng lại và đi về nhà chúng. Benjamin cực nhọc vật vã mà không tách được Hạt Đậu ra khỏi Chattypatra, nhưng ông Onimous đã thuyết phục được hai con chó bằng một gói bít-tết của chó cho Hạt Đậu mang về nhà, và một tô kem cho Chattypatra ở đằng sau quầy.
Dư âm của cơn bão còn nhấn nhá trên đầu Charlie và Tancred khi chúng tất tưởi chạy trên đường Piminy. Tancred phân bua rằng anh không thể kiềm chế được. “Nhưng thời tiết là một vỏ bọc để bảo vệ chúng ta, Charlie, em không cảm thấy thế sao?”
Có, Charlie cảm thấy gì đó chứ. Nó linh cảm một sự xung đột dữ dội ở đường Piminy, cứ như vừa có những lằn chiến tuyến được dựng lên vậy. Bao nhiêu thầy pháp đã từng sống ở đây? Ai trong số họ xứng danh con cháu Vua Đỏ, và ai dùng phép thuật để chống lại hàng xóm láng giềng của mình.
Khi chúng đi tới tiệm Đá, Tancred ghé mắt dòm vô cửa sổ. Anh rùng mình rụt sâu vào chiếc áo khoác mùa đông của mình. “Thử nghĩ coi, Charlie. Một đội quân đá chuyển động. Ai có thể đánh bại đội quân đó?”
Charlie không trả lời.
Bên ngoài tiệm bán cá, Tancred lại chùng chình lần nữa. Anh ngước nhìn cửa sổ phía trên tấm biển bôi bác. Charlie đã kể cho anh nghe những gì Emma đã thấy, nhưng dù gì Tancred vẫn cứ dừng lại. Ở đây, anh cảm thấy một kẻ thù mà mình sinh ra để đối đầu với hắn. Anh không biết mình và Dagbert có chung một tổ tiên bão tố: Petrello, người tạo bão, sương mù, và những dòng thủy triều chết người.
Charlie nhìn tấm biển hú hít trong gió. Nó giật cánh tay Tancred. “Đi thôi. Em muốn tới nhà bà Kettle.”
“Nó thậm chí không phải là một cái tiệm,” Tancred nhận xét. “Chẳng có gì để bán, cho dù bọn họ là ai chăng nữa. Nhưng anh cũng ngửi thấy mùi cá rõ ràng.” Anh lùi lại khỏi cửa sổ, tay bịt mũi.
Charlie không thể chậm trễ cuộc thăm viếng hơn nữa, nó vụt chạy tới tiệm Ấm Đun và gõ cửa rầm rầm. Tancred chạy tới với nó, chúng đợi vài giây rồi Charlie lại đập gõ tiếp, dộng hết sức bằng cái đập cửa hình chiếc ấm.
“Trời đất ơi, Charlie Bastory, cái gì đưa cưng trở lại đây thế? Bà đang bận tay.” Bà Kettle đứng ở ngưỡng cửa,tay khoanh trước ngực. Bà mặc áo liền quần lấm lem dầu mỡ và mặt bà dính đầy nhọ. Trông bà chẳng có ý muốn cho ai vô nhà cả.
“Xin lỗi, bà Kettle,” Charlie hấp tấp nói, “Nhưng có chuyện đã xảy ra, môth chuyện mà bà nên biết.”
Bà Kettle chồm tới trước và dòm dáo dác ngược xuôi con phố. “Cưng vô đây. Chúng ta không muốn cả lối phố biết chuyện của chúng ta. Ai đi cùng với cưng thế này?”
“Tên cháu là Tancred Torsson,” Tamcred tự giới thiệu, bước vô cửa hàng. “Cháu đang gây ra một chút bão mà nó hiện đang thổi qua cửa nhà bà.”
“Chút bão ư? Trận cuồng phong chết tiệt thì có. Chắc chắn cậu lợi hại đấy. Ta là Katya Kettle. Hân hạnh gặp cậu.” Bà lắc cánh tay Tancred nồng nhiệt đến độ anh phải giữ lấy vai mình, tưởng như cánh tay rời khỏi khớp xương đến nơi.
Khi theo bà Kettle vô căn phòng sau của bà, chúng nhận thấy có tiếng lạch cạch và tiếng gì rơi tõm phát ra từ hai phía bên hông chúng. Nhìn quanh, chúng thấy nắp của một cái ấm màu xanh dương cứ nhấc lên không lại rớt cạch xuống. Điều tương tự cũng diễn ra với một cái ấm đồng, rồi một cái ấm nhỏ bằng sắt.
“Chuyện gì thế ạ, bà Kettle?” Charlie hỏi.
“Chứ cưng nghĩ là gì hả, Charlie? Khối năng lượng tích tụ trên đường này dư sức thổi bay mái nhà của bà đi.” Bà Kettle ngồi xuống ghế, và thấm cái trán bóng lưỡng của mình bằng một miếng giẻ nhem nhuốc dầu.
“Bão tố của cháu thường không có tác động như thế,” Tancred nói, ngồi xuống bên cạnh người thợ rèn to lớn.
“Bão tố của cưng!” Bà cười buồn rầu với Tancred. “Đó chỉ là một phần thôi. Cái ác đang len lỏi trong thành phố này, cưng à. Đang nở rộ như một bông hoa ăn thịt người khổng lồ, và tất cả nảy sinh từ anh chàng Manfred Bloor trẻ tuổi hiểm độc. Sự thù hằng của hắn ghê gớm đến mức nó sẽ trấn áp chúng ta, trừ phi chúng ta phải làm gì đó để chống lại nó.”
“Có ai biết vầ thanh gươm bà đang rèn không?” Tancred hỏi, liếc nhìn cái ấm lớn đang run rầy mà Charlie quan sát nãy giờ.
Bà Kettle nhún vai thật rõ. “Ai biết được? Chúng biết những gì ta làm. Ai mà không nhận ra những tia lửa và tiếng quai búa vọng ra từ sau cái tiệm nhỏ của ta, nhưng chẳng bao lâu nữa hiệp sĩ sẽ có thanh gươm của ngài, và chúng ta sẽ thấy ...”
Charlie quay phắt lại. “Bà Kettle! Cháu không nghĩ bà nên đưa thanh gươm cho Hiệp Sĩ Đỏ.”
“Điều gì khiến cưng nghĩ vậy?” trông bà Kettle ngạc nhiên thực tình.
Charlie chật vật chuyển mối nghi ngờ của mình thành lời. “Hiệp sĩ trên cầu mặc áo choàng đỏ và ... và Gabriel Silk, gia đình anh ấy giữ áo khoác của Vua Đỏ, à, anh ấy nói có ai đó đã đánh cắp chiếc áo rồi; chiếc áo của nhà vua ấy.”
“Charlie Bastory!” Người thợ rèn nhìn nó phẫn nộ đến nỗi nó lùi lại dựa vô cái bàn để la liệt ấm. “Bị đánh cắp ư! Mượn, hay có lẽ đòi lại, nhưng không bao giờ ăn cắp. Điều gì khiến cưng nói như vậy?”
“Cháu không biết,” Charlie lảng tránh ánh mắt nghiêm khắc màu đồng của bà. “Nhưng một thanh gươm như thế, bà Kettle, sẽ bất khả chiến bại phải không? Rủi nó rơi vào bàn tay không thích hợp, thì nó sẽ nguy hiểm vô cùng.”
“Nó cần phải nguy hiểm, thằng bé khờ à. Những lời của Feromel ở trong đầu bà khi bà rèn thanh gươm. Chính pháp thuật của ngài tạo hình cho khối thép bân dưới tay búa của bà. Ngài đi cùng bà trong từng bước của quá trình này.”
“Nhưng giả sử hiệp sĩ đó là kẻ mạo danh thì sao?”
Người phụ nữ mở mắt nhìn nó trân trối, không tin nổi. “Cưng nghĩ là ta không biết ư?”
“Không phải,” Charlie nói yếu ớt. “Cháu chỉ giả sử thôi.”
Bà Kettle đứng lên và lại lau mặt lần nữa. “Hừ, nếu đó là điều cưng đến để nói với ta thì cưng phung phí thời giờ của ta rồi. Ta có việc cần làm, như mấy cưng thấy rõ rồi đấy.”
Đằng sau Charlie, cái ấm sắt khổng lồ rú lên những tiếng u u, phả hơi nước. Cái nắp ấm nặng nề bắn vọt lên không, rồi rơi oạch xuống đất một cái choang váng óc. Charlie định nhặt nó lên thì nhận thấy mặt trăng chiếu trong mặt nước đen trong lòng ấm. Nó nhìn kĩ hơn thì mặt trăng lướt khỏi khung cảnh, để rồi được thay thế bằng một vòng tròn lửa nhấp nhô.
“Đừng nhìn!” một giọng ra lệnh, nhưng ánh mắt của Charlie bị những hình ảnh thay đổi trong ấm giữ chặt lại. Bây giờ nó có thể thấy một người đàn ông bên bếp lửa, đang cho thêm cành khô vào ngọn lửa. Mình đang chu du, Charlie nghĩ, nhưng đây không phải lúc. Nó tuyệt đối không được... chu du vô trong đó!
Nó nghe thấy tiếng người luống cuống cảnh báo nó. Những bước chân đằng xa, một bàn tay chìa ra, nhưng những ngón tay bấu chặt vai nó lại nhẹ tênh như bụi.
Bây giờ bắt đầu chuyến lộn nhào, trôi lướt, chuệch choạc qua không gian mà Charlie vừa thích thú vừa kinh hoảng. Những giây đầu tiên của cuộc hành trình luôn luôn đáng sợ nhất, khi chân nó bị hổng khỏi thế giới nó đã biết để trôi tuột vô thế giới nó không biết.
Nó đáp xuống đông rơm chất chù ụ ở phía sau một căn phòng. Một cửa sổ nhỏ, cao trên tường, bao trọn vầng trăng tròn. Ánh mắt Charlie rê từ mặt trăng tròn đến người đàn ông đang nuôi ngọn lửa. Nó chưa bao giờ thấy người nào cao lớn và vai rộng đến thế. Ở ông toát lên sức mạnh vô song, và Charlie hi vọng ông ấy không thù địch, bởi vì rõ ràng ông có thể bóp một người như nó dễ như bóp một con rệp không được chào đón.
Ánh sáng duy nhất trong phòng tỏa ra từ ngọn lửa nhưng khi mắt Charlie quen với bóng tối, nó có thể thấy sàn nhà trống trơn, những bức tường gạch xám xịt, kít bồ hóng. Bên cạnh ngọn lửa là một cái ấm sắt to đùng, có lẽ đúng là cái ấm mà Charlie đã rơi vào.
Khi người đàn ông cời ngọn lửa, một đám tro bay tung mù khắp phòng và Charlie hắt xì.
“Lòng trung thành!” người đàn ông thét, quay khỏi đống lửa. Ông trố mắt nhòn Charlie, chột dạ. “Mi là cái gì? Phải là kẻ bọn chúng phái tới dò la ta?”
Charlie đứng run lẩy bẩy và, hắng giọng nói, “Ừm, không phải, thưa ngài. Cháu đến từ... từ, cháu là người chu du.”
“Người chu du?” Người đàn ông thả cây cời lửa xuống và đi về phaid Charlie, nheo mắt nhìn xuống nó một cách nghi ngại. “Một người chu du?” Ông lặp lại. “Giống như bà Amoret?”
“Bà Amoret?” Trí óc bấn loạn của Charlie quay mòng. “Con gái út của Vua Đỏ? Phải, cháu nghĩ cháu là hậu duệ của bà.”
“Quà tặng cho số mệnh của ta.” Người đàn ông vạm vỡ chộp lấy vai Charlie. “Hãy biết rằng ta là Feromel, và đây có lẽ là ngày cuối cùng của ta trên đời.”
“Ngày cuối cùng của ông? Tại sao?” Charlie hốt hoảng hỏi. “Sao lại vậy?”
“Chúng muốn một vật, nhưng không đời nào chúng sẽ có nó đâu. Hãy coi đây!” Từ một cái bàn ở góc phòng, Feromel nhặt lên một cái gói bọc vải đỏ. Giở miếng vải ra, ông để lộ một cái gươm sáng loáng. Tay cầm bằng vàng chạm khắc nhiều hình chim mắt cẩn đá ruby trên một bố cục hình viên kim cương. Thanh chặn ngang mang hình hai con báo có cánh với những đốm sáng bằng saphia.
Nước vàng cổ xưa ánh ngời và vẻ đẹp của cán gươm trên nền vải đỏ khiến Charlie thở hốc lên. “Cái này của Vua Đỏ phải không ạ?” nó thì thào.
Feromel mỉm cười. “Ta tin cháu là một trong những người đáng tin cậy.”
“Cháu hi vọng mình được như vậy,” Charlie nhiệt thành.
“Thế thì hãy biết rằng chính tay nhà vua đã trang trí cán gươm phép thuật này. Thanh gươm đã biến mất, ta hi vọng sẽ rèn một thanh khác, nhưng giờ thì quá trễ rồi.”
Một tiếng ầm vang như tiếng sấm dộng vô cánh cửa và Feromel thét. “Lẹ lên, chúng ta phải giấu nó đi.” Ông băng qua phòng, nhặt cây cời lửa lên và trao cho Charlie. “Hãy gạt ngọn lửa qua bên, cậu bé, trong khi ta làm phần còn lại.”
Cố hết sức để không run rẩy, Charlie cầm lấy cây cời lửa và đấy những cành khô đang cháy qua một bên.
Ông Feromel đeo đôi bao tay dài bằng da vào, rồi một tay nhặt cán gươm bọc trong gói vải lên, cầm chắc, tay kia ông thọc thẳng ra sau ngọn lửa và xê dịch một viên gạch ống khói.
Lại một đợt dộng thình thình xóc tai nữa khiến cánh cửa dày của người thợ rèn võng oằn vô trong. Hơi nóng hầm hập từ ngọn lửa táp vào làm nước mắt Charlie chảy dàn giụa, nhưng nó thấy rõ lỗ hổng đen trong bức tường gạch, và nó nhìn bàn tay đeo găng của ông Feromel, bị lửa cháy xém, đẩy gói vải đỏ vô cái hốc rồi kê một viên gạch đóng lại.
“Xong rồi, cậu bé. Cảm ơn cậu!” ông Feromel tháo đôi găng tay cháy sém ra và đấm thụp vô lưng Charlie.
Cánh cửa không còn chịu nổi sức đập từ bên ngoài nữa. Nó đổ ập vào phòng và ba khối hình khệnh khạng bước qua đống gỗ vụn: một người đàn ông đá, một phụ nứ đá lăm lăm dùi cui, cùng bức tượng thần lùn mà dựng bên ngoài ngôi nhà của bà cô Vernetia.
Dù vận hết sức lực phi thường của mình, ông Feromel cũng không tung nổi một cú đòn. Nắm đấm to xụ của ông nảy tưng khỏi những thân hình đá bạo tàn, đôi chân dài của ông ngã nhào dưới cái đầu bổ tới của thần lùn.
‘Đi đi, cậu bé! Hãy tự cứu mình!” ông Feromel kêu lên.
Bủn rủn tứ chi, Charlie cuống quít không biết phải đi đâu. Nó bị bỏ lại đằng sau vật duy nhất có thể đưa nó trở về - con bướm trắng của nó.