Chương : 9
Trận tàn phá ở tiệm ấm
Đường Piminy chạy ngay phía sau tiệm sách Ingledew. Những tòa nhà khung gỗ xô nghiêng, trông nguy hiểm như muốn đổ xuống lòng đường đến nơi; những cánh cửa lung lay được đánh dấu bằng những mũi tên và mái ngói nhấp nhô tựa những gợn sóng; tuy nhiên, trận đại hỏa hoạn thể kỉ mười tám đã không bao giờ chạm tới được những ngôi nhà cổ xưa này. Theo cô Ingledew đó là bởi vì vào thời đó hầu hết mọi ngôi nhà trên con đường này đều do một thầy pháp loại này hay loại kia làm chủ.
Ấy thế mà, đường Piminy lại là nhà của bà Kettle, dù ở bà không có chút xíu gì độc ác cả. Nhìn bà có lẽ thấy lạ thường, chứ không có gì đe dọa, đáng sợ. Bà đã cho Charlie cái ấm do chính ông tằng tổ nhiều đời của bà, ngài Feromel, rèn cách đây năm trăm năm. Trong ấm chứa một chất lỏng màu đen không bao giờ bị đổ ra ngoài. Chất lỏng vĩnh cửu đó thường lạnh nhưng Kettle đã cảnh báo Charlie rằng hễ khi nào sờ thấy cái ấm nóng lên thì có thể nó sẽ gặp nguy hiểm.
Vào tối thứ sáu, Charlie không ngạc nhiên khi thấy cái ấm nóng ran đến nối nó không thể chạm vô được. Sáng hôm sau ngay khi tỉnh dậy nó lại sờ cái ấm lần nữa. Có hơi nguội đi nhưng vẫn còn nóng.
Billy cũng biết về cái ấm của Feromel. “Nó nóng à?” thằng bé hỏi.
“Không quá nóng.” Charlie đẩy cái ấm xuống dưới gầm giường.
“Ăn sáng xong tụi mình tới nhà bà Kettle lấy Rembrandt được không?” Billy quăng giò khỏi giường và đeo mắt kính vô.
“Hừm. Ước gì anh liên lạc được với Tancred,” Charlie nói.
Cả Charlie lẫn Billy đều không có điện thoại di động. Trường không cho phép chúng mang theo, còn nội Bastory thid tẩy chay loại điện thoại này. Charlie không thích ý nghĩ nói chuyện với Tancred từ điện thoại ngoài hành lang, với khả năng rất có thể bị nội Bastory nghe lỏm
Chiếc xe thùng màu trắng đã đi khỏi khi hai thằng bé xuống lầu ăn sáng.
“Trước lúc bình minh mà ông cậu của con đã ra đi rồi,” ngoại Maisie nói, đặt một lát thịt xông khói lớn lên từng đĩa cho bọn chúng. “Ông ấy lần theo dấu vết một cái gì đó...có trời biết là cái gì.”
Sau khi xơi thêm một lát thịt xông khói nữa cùng với vài lát bánh mì quết mật ong, Charlie và Billy lên đường tới Tiệm ấm
“Lúc nào con cũng có thể mang con chuột của con về đây,” ngoại Maisie nói khi bà tiễn bọn chúng ở cửa trước. “Bà ta không bao giờ biết đâu,” bà nói them, nháy mắt lên cầu thang nơi nội Bastory đang súc miệng buổi sáng.
“Cám ơn bà Jastorys.” Billy chạy theo sau Charlie.
Charlie xấp ngửa đi khỏi nhà số 9 càng nhanh càng tốt. Nó không muốn giáp mặt Benjamin lần nào nữa trước khi nó cứu được Hạt Đậu ra.
Ngay khi vừa rẽ vô đường Pimny, cảm giác sờ sợ mà Charlie hay cảm thấy ở đây hôm nay dường như mạnh hơn. Nó hay tưởng tượng có ai đó đang nhìn mình từ một cửa sổ tối hù nào đó bên dưới mái hiên.
Tiệm ấm nằm quá khỏi tiệm cá bí hiểm, nơi mà chẳng bán cá bao giờ.
Nhưng trước khi tới tiệm cá thì chúng phải đi qua Tiệm Tượng Đá. Trong số những ngôi nhà trên đường Piminy thì cái tiệm này rùng rợn nhất. Nổi lên giữa bóng tối đen đặc bằng đá đang vung dùi cui hoặc vung rìu. Có cả những người lính đá, ngựa đá và chó cũng bằng đá. Những gã hiệp sĩ mà có lần tấn công bọn trẻ không còn ở đây nữa – gã bị Hiệp sĩ Đỏ chém đứt đôi và bây giờ đang cùng với con ngựa đá của gã nằm bẹp dưới đáy sông.
“Đi tiếp đi,” Billy kéo giật áo jacket của Charlie. “Em ghét nơi đó.”
Mũi Charlie dí suýt chạm vô khung cửa sổ. Trong lòng nó đang thắc thỏm sợ gặp ai đó thì quả nhiên nó gặp người thật. Eric Shellhorn, thằng con riêng của chồng bà cô Venetia. Charlie có thể nhận ra mặt nó đang lấp ló từ đằng sau một bức tượng đá cao, mặc áo thụng – hình như là tượng một giáo sĩ Druid--1.
“Anh biết ngay là nó ở trong đó mà,” Charlie lầm bầm.
Billy giật ống tay áo Charlie. “Đi đi, Charlie. Một bức tượng trong đó lại bắt đầu động đậy bây giờ.”
“Anh không nghĩ Eric sẽ làm điều đó giữa ban ngày ban mặt.”
“Nó làm chứ sao không. Đi nào. Em muốn gặp Rembrandt.”
Ngay trước khi lùi khỏi cửa sổ, Charlie đã kịp nhìn thấy Eric chạy vụt ra đằng sau tiệm. “Nó định giở trò gì tiếp theo đây, anh thắc mắc?”
Billy đã ù té chạy tiếp trên đường và Charlie liền chạy theo, nhưng nó thấy mình cứ lấn bấn bên ngoài tiệm cá. Cánh cửa nơi quái đản này luôn đóng và im ỉm, tuy nhiên mùi tanh nồng lại phả ra từ trong nhà, như thể mỗi viên gạch được làm từ một con cá thu hay cá tuyết.
Đây là nhà của Dagbert Endless – nếu ta có thể gọi đó là nhà. Cửa sổ phía trên tấm biển vừa đen vừa cáu bẩn. Nhưng tấm rèm mòn xơ chỉ, và tất cả những gì được nhìn thấy bên trong cửa sổ ấy là một cái quầy trống trơn trong căn phòng tường lát gạch men trắng nứt nẻ, sàn nhà lát đá phiến rêu mốc. Charlie nhăn mũi và bước đi tiếp. Đến lúc nó tới Tiệm Ấm thì Billy đã vô bên trong tiệm và đang len lỏi qua từng ấm trưng bày trên những cái bệ và trên bàn kê khắp phòng.
Charlie đóng cửa tiệm lại, cánh cửa rít ken két trên những bản lề gỉ sét; nó theoBilly đi qua một khung cửa hình vòm vô một căn phòng khác cũng chất đầy ấm. Nhưng ở đây có bốn chiếc ghế quây quanh một cái bàn còn để trống, nơi khách hàng có thể ngồi chime ngưỡng ấm cổ đủ loại. Trên bếp lò phía sau bàn có một chiếc ấm đồng đang huýt sáo vui vẻ.
“Ta biết ngày hôm nay ta sẽ gặp mấy cưng mà.” Bà chủ tiệm nhấc cái ấm đang kêu vang xuống và rót nước sôi vô bình trà lớn màu nâu.
“Bởi vì con chuột của cháu ạ,” Billy nói, mắt dán vào đĩa bánh quy nhân bà Kettle vừa để lên bàn.
“Ừ, đúng là con chuột của cưng, cưng à.” Bà Kettle là một phũ nữ cuồn cuồn vơ bắp, tóc thẳng màu đồng quấn cao trên đỉnh đầu. Bà mặc áo bảo hộ liền quần màu xanh đậm, đi ủng da lấm chấm vết dầu, bởi vì trên hét bà là một thợ rèn – bán ấm chỉ là một thú vui và là bình phong che giấu nghề nghiệp bí mật của bà.
“Thế nó đâu rồi ạ?” Billy dáo dác nhìn quanh, hy vọng một con chuột đen xồ ra chạy về phía mình.
“Đoán coi!” bà Kettle nói.
“Cháu không đoán được,” Billy nôn nóng. “Có quá nhiều nơi cho nó trốn quá.”
Bà thợ rèn bước từ chỗ này qua chỗ nọ, tới đâu gõ gõ những chiếc ấm tới đó. Bà ngập ngừng, lại đi tiếp, dừng chân và trầm ngâm, xoa cằm. “Hay là ta đã làm mất nó rồi.”
“Kh..ô...ng!” Billy thét kên.
Nắp của cái ấm sắt khổng lồ hơi nhấc lên một chút rồi nảy xuống nền nhà nghe một tiếng choang thật lớn. Họ chờ đợi, nhưng không có con chuột đen ló ra. Thay vào đó là cái đầu của một con trăn màu xanh da trời. Nó ngúc ngoắc qua này rồi ngo ngoe qua bên kia, những sợ long chim xanh da trời tuyệt đẹp trên đầu nó phất phơ như những dải băng rôn lụa trong gió.
“Ố, cháu quên mất là con trăn ở đây.” Billy đi về phía cái đầu khà khật.
“Nó là một anh chàng tốt tính. Ta liên lạc được với nó đàng hoàng. Ta gọi nó là Solomon, nó khôn ơi là khôn.”
Vừa trông thấy Billy, con trăn xanh da trời liền trườn ra khỏi ấm, bò dưới đất và bắt đầu quấn quanh chân Billy. Nhưng Billy nâng con vật lên và nhạ nhàng quàn vô vai mình trong khi vừa ngâm nga vừa nói rin rít với nó. Con trăn đáp lại bằng âm thanh liếp chiếp, nhẹ như tiếng kêu của một con chim nhỏ.
“Tốt lắm,” Billy nói khi con chăn đã an vị. “Nó sẽ không làm cháu vô hình đâu.”
“Diệu kỳ là cưng có thể làm được như thế, Billy,” bà Kettle tấm tắc. “Solomon rất năng động trước khi nó chuẩn bị đi nghỉ trưa. Nhện, ruồi, bọ hung, kể cả chuột nó đều quấn vô thân người dài xanh da trời của nó và làm bọn chúng biến mất ngay tại chỗ.”
Charlie cảm thấy cái gì đó động đậy trên bàn chân mình. Ngay trước mắt, nó thấy sợi dây giày bắt đầu biến mất. “Billy, anh nghĩ anh đã thấy Rembrandt rồi. Nó đang ăn dây giày của anh.” Charlie giơ chân lên và đá nó về phía Billy.
Có một tiếng chít thật lớn vang lên đồng thời mái tóc trắng của Billy thình lình úp chụp xuống mặt. Billy giơ cả hai tay lên chụp rồi bụm vô lòng bàn tay thứ gì giống hệt như không khí. Nhưng Billy có thể cảm thấy những sợi ria, lông và một cái đuôi dài ốm tong.
“Solomon làm Rembrandt vậy đó,” Billy nói, lộ vẻ sung sướng vì tìm thấy con chuột nhưng lại lo cho tình trạng vô hình của chú chàng.
“Ta nghĩ cưng sẽ dàn xếp được hết mà. Con trăn đó có thể làm bất kỳ điều gì vì cưng,” bà Kettle bảo.
Billy đặt con chuột vô hình xuống sàn và bắt đầu rúc rích với con trăn trên vai. Nhưng Rembrandt rõ ràng là thích thú với sự vô hình này. Charlie cảm thấy con chuột chạy qua bàn chân mình, rồi lại thấy một cái bài lắc lư, một cái ấm rơi bộp xuống sàn. Tiếp theo là tiếng chân tí nị chạy nhí nhoáy và tiếng chít khoái chí bươn qua cửa vòm, ra tiệm phía ngoài. Bà Kettle thụp gối xuống và bắt đầu bò quah các bục trưng bày ấm; hai thằng bé bắt trước làm theo bà, rồi con chăn cũng nhập cuộc kiếm tìm – trườn ngang qua sàn với vẻ rất kịch trên cái mặt đóng vẩy của nó. Bà Kettle bỗng phá ra cười. Charlie không nín được cười, rồi thì ngay cả Billy cũng nhận thấy khía cạnh khôi hài của sự việc, nó lăn ra sàn mà vười nôn ruột.
Không ai để ý cửa tiệm mở ra chỉ một hí, không đủ rộng để cửa kít lên. Cũng không ai nghe thấy tiếng bước chân lướt nhẹ trên sàn nhà, và không ai thấy Eric Shellhorn lẻn qua cửa vòm, vù tới cánh cửa kim loại dẫn vô xưởng rèn của bà Kettle.
Tất cả sự việc đó diễn ra trong vòng chưa tới một phút, sau đó con trăn xanh da trời cuộn chặt than mình nó thành nùi. Một tiếng chít chói tai và một con chuột đen nhảy phóc ra từ cái nùi Solomon bóng loáng, chạy tới với Billy
“Cảm ơn, Solomon.” Billy nhặt con chuột đang run rẩy lên, vuốt ve và nhét nó vô túi áo.
“Một tách trà ngon nhé, mấy cưng,” bà Kettly nói, đứng dậy. “Có lẽ thêm một hay hai cái bánh quy nhân nữa.”
Hai thằng bé theo bà trở lại chiếc bàn, có Solomon trườn dưới sàn nhà bên cạnh. Khi Billy ngồi xuống, con trăn xanh da trời ngòng đầu lên và bắt đầu lúc lắc thân mình. Charlie cảm nhận được hình như nó đang lo lắng, thậm chí sợ hãi. Nó cứ ngóc nhìn lên Billy mà rít rú.
Billy trả lời con trăn bằng một tiếng ậm ừ khẽ rồi thông báo cho mọi người, “Solomon nói có ai đó đã đi vô tiệm.”
“Ớ, không có ai ngoài chúng ta,” bà Kettle nói. “Con rắn của cưng có nói là ai không?”
“Con đã hỏi, nhưng nó không biết.”
Charlie nhìn con trăn trườn trở vào ổ của nó bên trong cái ấm tổ chảng. Charlie cảm thấy bất an. Con trăn đó không có lí do gì để nó nói xạo. Nó thông thái và dịu dàng, không phải là kẻ hay đùa. Chả hiểu cái gì xui khiến Charlie hỏi. “Bà có một bức tượng quỷ lùn bằng đá ở đây phải không?”
“Đúng rồi, Charlie,” bà Kettle xác nhận. “Nó bị xích vào lò rèn của ta kể từ khi nó tấn công hai cha con bé gái tội nghiệp. Tên quỷ lùn đó đã có lần tự gây tội ác khi Eric làm cho nó sống dậy.”
Đó cũng chính là bức tượng quỷ lùn đã từng dựng bên ngoài cửa nhà bà cô Venetia của Charlie. Vào một ngày Charlie không bao giờ quên, bức tượng đã tấn công chồng mới của bà cô Venetia và con gái ông, Miranda. Người đàn ông đáng thương ấy đã bị bỏ bùa để chịu lấy bà ta, nhưng đến khi hiểu ra sự tình ông đã đưa con gái trốn thoát khỏi thành phố. Eric vẫn ở lại với mẻ ghẻ. Bà cô Venetia có một tài phép rất khó chịu: mụ ta có thể đầu độc nạn nhân bằng cách tẩm thuốc độc vô quần áo của họ. Nhưng mụ mơ đến việc sử dụng tài phép của Eric để phục vụ cho tham vọng quyền lực của mụ.
“Cháu nghĩ mình đã gặp nó rồi,” Charlie nói thủng thẳng, “Khi nó là một gã quỷ lùn thật. Tên là Ngón Cái Dị.”
“Gặp rồi ư, Charlie? Quỷ lùn?” à Kettle ngừng khuấy trà và xoáy đôi mắt màu hổ phách nhìn Charlie. “Ý cưng là gặp trong những chuyến chu du của cưng?”
“Dạ phải,” Charlie đáp, rồi kể lại cuộc phưu lưu vô xứ Badlock của nó.
Bà Kettle chìm đắm trong suy tưởng. Chỉ một lần bà nhấc tách trà lên, rất chậm và húp soạt một ngụm trà đang nguội đi nhanh chóng. Khi Charlie kể xong, bà chỉ còn biết lắc đầu một hồi như hồn xiêu phách lạc.
Trong bầu không khí im lặng khác thường, Charlie cảm thấy hơi lạnh tràn vô tiệm. Và rồi, không biết nó tưởng tượng hay là những cái ấm sáng choang kia đột ngột mất đi độ sáng?
“Cái bóng đang rắp tâm trở lại,” bà Kettle nói tự như đang độc thoại. “Hãy khóa chặt cửa tầng hầm nhà cưng lại, Charlie, rồi vứt chìa khóa đi trước khi bức tranh đó bắt cưng lần nữa.”
“Nhưng còn Hạt Đậu!” Billy phản đối.
“Cưng sẽ quên nó, Billy, nếu cưng khôn ngoan,” bà Kettle nói.
Chắc chắn bà ấy biết tụi mình không thể quên được Hạt Đậu, Charlie nghĩ. Nhưng trông bà Kettle rất nghiêm trang, trông đầy lo âu vì rắc rối bí mật nào đó, đến nõi nó phải thừa nhận lời cảnh báo của bà là cực kì nghiêm chỉnh.
“Tiệm Tượng Đá lại bị chiếm lĩnh rồi,” cuối cùng bà Kettle nói. “Nhiều năm nó bỏ không, với tượng khắc dở ở trong sân, tượng hoàn chỉnh trong tiệm thì đầy mạng nhện. Nhưng cách đây hai ngày ta nghe có tiếng búa đập. Chát! Chát! Chát! Tiếng kim loại đục đá. Ta bèn rời lò rèn để đi ra ngõ hẻm đằng sau dãy tiệm trên đường này. Ta nhìn vô sân tiệm Tượng Đá và thấy hắn: một gã đàn ồn hung tợn, ria mép vàng và đội mũ cao bồi. Melmott, hắn giới thiệu đí là tên hắn. Nhưng hắn chỉ nói với ta tất cả có thế thôi. Ta e rằng hắn là kẻ đầu tiên trong số nhiều.”
“Đầu tiên trong số nhiều cái gì ạ?” Charlie hỏi.
“Thầy pháp, cưng, nếu mong muốn dùng một từ mỹ miều hơn. Đã có thời phố này đấy ắp bọn họ, nhưng đến lúc ta được thừa kế nơi này từ ông cố của ta thì bọn họ tất cả đã đi rồi. Và giờ...” Bà Kettle thu dọn cái tách và đem ra bồn rửa bên cạnh bếp lò.
“Giờ thì sao ạ?” Billy thúc bách.
“Giờ những kẻ xấu đang trở lại. Không phải chỉ mình Eric thôi đâu, mà cả những đứa trẻ ở Học viện Bloor, thằng dìm chết người, thằng nam châm, đứa chuốc độc, Manfred-kẻ-thôi-miên, và lại còn mụ phù thủy đó, mụ Tilpin, mẹ của thằng nam châm – phe bọn chúng đang mạnh lên, mấy cưng à. Những người như chúng ta phải đề phòng và canh chừng, bảo vệ lẫn nhau. Ta là người duy nhất còn sót lại trên phố này, hai cưng à. Người duy nhất có thể ngăn cản bọn chúng. Ta linh cảm mạnh mẽ là bọn chúng sắp sửa làm gì đó. Chưa biết là cái gi. Nhưng ta đang cảnh giác cao độ.”
“Bà Kettle, cho cháu xem bức tượng đá được không?” Charlie hỏi.
“Bây giờ ư, cưng muốn xem thật à?” Bà Kettle liếc nhìn cánh cửa kim loại, ngại ngùng cho Charlie vô lò rèn của mình.
“Cháu chỉ muốn chắc chắn Ngón Cái Dị vẫn còn ở đó thôi.” Mối lo âu của Charlie đang tăng dần.
Bà Kettle thở dài, chùi bàn tay ướt vô bộ đồ bảo hộ và mở cánh cửa sắt ra. Charlie bước vô lò rèn. Trông nó vẫn hệt như lần trước Charlie vô. Những bức tường gạch tro trụi, nền đá bẩn bụi và đủ loại dụng cụ treo thòng từ nhà xuống. Cái đe nằm ở giữ phòng, và ngọn lửa phì phụt được nghe thấy đằng sau một cánh cửa sắt nhỏ ở chân ống khói.
Trong góc tối có một bức tượng lùn bè bè. Một sợ xích chập đôi tròng quanh vòng hông dày cui của hắn, hai đầu sắt móc vô những cái khoen sắt lớn ở trên tường. Charlie nhìn trừng trừng vô bức tượng, mắt nó dần quen với bóng tối. Giờ nó có thể thấy cái mũi rộng bự thịt, cái miệng mỏng méo xệch và đôi mắt ti hí.
“Hài lòng chưa, Charlie?” bà Kettle gọi to.
“Dạ.” Charlie định bước trở ra thì bất chợt nó thấy vằn sáng lóe lên trong con mắt bên trái của bức tượng quỷ lùn. Một cái chớp mắt chăng? Điếng người vì cái chớp mắt đó, lại thêm hoảng hốt về tính chất vủa sự việc, Charlie sờ soạng ra sau tìm cánh cửa.
Nhưng nó quá trễ. Một tiếng động xé tai và bức tượng bung thoát khỏi bức tường, bay chíu về phía Charlie. Nó né, kèm tiếng thét khiếp vía, còn Ngón Cái Dị lướt qua cánh cửa đang mở, vút ra phòng trưngày ấm.
Trong khi toàn thân thân run lên mất hồn, Charlie cố chạy theo bức tượng quỷ lùn. Nó thấy bưc tượng tông thẳng vô bà Ketlle. Bà thợ rèn không có cơ may né được. Ngón Cái Dị đâm trúng đầu bà, khiến bà hộc lên một tiếng và xuội xuống sàn.
Chưa thỏa mãn với cú đòn này, bức tượng quỷ lùn bắt đầu phá tanh bành đồ đạc, xô những cai ấm đổ lộn nhào xuống nền nhà.
Billy nằm úp dưới sàn gầm bàn, hai tay ôm lấy đầu. “Không, không, không,” nó rên rỉ.
“Suỵt!” Charlie thì thào, bò về phía Billy.
Một bầu im lặng hoàn toàn theo sau lời thì thầm của thằng bé, Charlie cảm nhận hình như tên quỷ lùn đang suy tính. Hắn sẽ làm gì tiếp? Liệu hắn có phát hiện ra bọn chúng? Liệu một tên quỷ lùn bằng đá có thể nghe hoặc ngửi? Giờ hắn đang ở góc nào? Charlie nín thở.
Một tiếng choang! Báo hiệu tên quỷ lùn đang ở đâu. Hắn đã đi qua khung cửa vòm ra tiệm ngoài, và giờ đang tiếp tục nghiền, bóp, bẻ và đập bể mọi cái ấm trên đường đi. Tiếng sắt và đồng, tiếng thép và men, thậm chí cả tiếng đất sét bể tạo thành một mớ âm thanh Charlie chưa từng bao giờ tưởng tượng ra. Nó tự hỏi bà thợ rèn bị thương có nghe thấy tiếng những cái ấm yêu quý của bà bị tàn pjas kinh hoàng hay không – liệu trái tim tan vỡ của và có hòa vô tiếng hủy hoại kinh thiên động địa này?
Khi đã tàn phá xong tất cả những gì trong tầm mắt, hắn sẽ quay lại chỗ mình cho mà coi; hắn sẽ lập tức cày dưới gầm bàn chỗ Billy đang núp, Charlie nghĩ. “Cơ hội duy nhất của bọn mình là bò vô lò rèn và khóa cửa ở yên trong đấy,” Charlie thì thào. “Nhưng tụi mình phải đưa bà Kettle đi cùng. Le lên, Billy! Tốt hơn phải đi ngay trong khi hắn mải đập phá ngoài tiệm.”
Nhưng Billy không thể nhúc nhích. Nó vẫn nằm co chèm mẹp. Không một âm thanh phát ra từ nó.
“Billy!” Charlie nắm cánh tay nó lắc
“Ừm,” Billy rên rỉ.
“Billy, tụi mình phải...”
Charlie không thể kịp nói hết câu. Nổi bật lên trên tiếng đập phá của tên quỷ lùn, nó phân biệt được tiếng kẹt cửa rất to. Ai đó đang đi vô.
Một tiếng thịch mạnh, như thể tên quỷ lùn vừa đáp từ trên cao xuống. Và rồi im lặng.
Đường Piminy chạy ngay phía sau tiệm sách Ingledew. Những tòa nhà khung gỗ xô nghiêng, trông nguy hiểm như muốn đổ xuống lòng đường đến nơi; những cánh cửa lung lay được đánh dấu bằng những mũi tên và mái ngói nhấp nhô tựa những gợn sóng; tuy nhiên, trận đại hỏa hoạn thể kỉ mười tám đã không bao giờ chạm tới được những ngôi nhà cổ xưa này. Theo cô Ingledew đó là bởi vì vào thời đó hầu hết mọi ngôi nhà trên con đường này đều do một thầy pháp loại này hay loại kia làm chủ.
Ấy thế mà, đường Piminy lại là nhà của bà Kettle, dù ở bà không có chút xíu gì độc ác cả. Nhìn bà có lẽ thấy lạ thường, chứ không có gì đe dọa, đáng sợ. Bà đã cho Charlie cái ấm do chính ông tằng tổ nhiều đời của bà, ngài Feromel, rèn cách đây năm trăm năm. Trong ấm chứa một chất lỏng màu đen không bao giờ bị đổ ra ngoài. Chất lỏng vĩnh cửu đó thường lạnh nhưng Kettle đã cảnh báo Charlie rằng hễ khi nào sờ thấy cái ấm nóng lên thì có thể nó sẽ gặp nguy hiểm.
Vào tối thứ sáu, Charlie không ngạc nhiên khi thấy cái ấm nóng ran đến nối nó không thể chạm vô được. Sáng hôm sau ngay khi tỉnh dậy nó lại sờ cái ấm lần nữa. Có hơi nguội đi nhưng vẫn còn nóng.
Billy cũng biết về cái ấm của Feromel. “Nó nóng à?” thằng bé hỏi.
“Không quá nóng.” Charlie đẩy cái ấm xuống dưới gầm giường.
“Ăn sáng xong tụi mình tới nhà bà Kettle lấy Rembrandt được không?” Billy quăng giò khỏi giường và đeo mắt kính vô.
“Hừm. Ước gì anh liên lạc được với Tancred,” Charlie nói.
Cả Charlie lẫn Billy đều không có điện thoại di động. Trường không cho phép chúng mang theo, còn nội Bastory thid tẩy chay loại điện thoại này. Charlie không thích ý nghĩ nói chuyện với Tancred từ điện thoại ngoài hành lang, với khả năng rất có thể bị nội Bastory nghe lỏm
Chiếc xe thùng màu trắng đã đi khỏi khi hai thằng bé xuống lầu ăn sáng.
“Trước lúc bình minh mà ông cậu của con đã ra đi rồi,” ngoại Maisie nói, đặt một lát thịt xông khói lớn lên từng đĩa cho bọn chúng. “Ông ấy lần theo dấu vết một cái gì đó...có trời biết là cái gì.”
Sau khi xơi thêm một lát thịt xông khói nữa cùng với vài lát bánh mì quết mật ong, Charlie và Billy lên đường tới Tiệm ấm
“Lúc nào con cũng có thể mang con chuột của con về đây,” ngoại Maisie nói khi bà tiễn bọn chúng ở cửa trước. “Bà ta không bao giờ biết đâu,” bà nói them, nháy mắt lên cầu thang nơi nội Bastory đang súc miệng buổi sáng.
“Cám ơn bà Jastorys.” Billy chạy theo sau Charlie.
Charlie xấp ngửa đi khỏi nhà số 9 càng nhanh càng tốt. Nó không muốn giáp mặt Benjamin lần nào nữa trước khi nó cứu được Hạt Đậu ra.
Ngay khi vừa rẽ vô đường Pimny, cảm giác sờ sợ mà Charlie hay cảm thấy ở đây hôm nay dường như mạnh hơn. Nó hay tưởng tượng có ai đó đang nhìn mình từ một cửa sổ tối hù nào đó bên dưới mái hiên.
Tiệm ấm nằm quá khỏi tiệm cá bí hiểm, nơi mà chẳng bán cá bao giờ.
Nhưng trước khi tới tiệm cá thì chúng phải đi qua Tiệm Tượng Đá. Trong số những ngôi nhà trên đường Piminy thì cái tiệm này rùng rợn nhất. Nổi lên giữa bóng tối đen đặc bằng đá đang vung dùi cui hoặc vung rìu. Có cả những người lính đá, ngựa đá và chó cũng bằng đá. Những gã hiệp sĩ mà có lần tấn công bọn trẻ không còn ở đây nữa – gã bị Hiệp sĩ Đỏ chém đứt đôi và bây giờ đang cùng với con ngựa đá của gã nằm bẹp dưới đáy sông.
“Đi tiếp đi,” Billy kéo giật áo jacket của Charlie. “Em ghét nơi đó.”
Mũi Charlie dí suýt chạm vô khung cửa sổ. Trong lòng nó đang thắc thỏm sợ gặp ai đó thì quả nhiên nó gặp người thật. Eric Shellhorn, thằng con riêng của chồng bà cô Venetia. Charlie có thể nhận ra mặt nó đang lấp ló từ đằng sau một bức tượng đá cao, mặc áo thụng – hình như là tượng một giáo sĩ Druid--1.
“Anh biết ngay là nó ở trong đó mà,” Charlie lầm bầm.
Billy giật ống tay áo Charlie. “Đi đi, Charlie. Một bức tượng trong đó lại bắt đầu động đậy bây giờ.”
“Anh không nghĩ Eric sẽ làm điều đó giữa ban ngày ban mặt.”
“Nó làm chứ sao không. Đi nào. Em muốn gặp Rembrandt.”
Ngay trước khi lùi khỏi cửa sổ, Charlie đã kịp nhìn thấy Eric chạy vụt ra đằng sau tiệm. “Nó định giở trò gì tiếp theo đây, anh thắc mắc?”
Billy đã ù té chạy tiếp trên đường và Charlie liền chạy theo, nhưng nó thấy mình cứ lấn bấn bên ngoài tiệm cá. Cánh cửa nơi quái đản này luôn đóng và im ỉm, tuy nhiên mùi tanh nồng lại phả ra từ trong nhà, như thể mỗi viên gạch được làm từ một con cá thu hay cá tuyết.
Đây là nhà của Dagbert Endless – nếu ta có thể gọi đó là nhà. Cửa sổ phía trên tấm biển vừa đen vừa cáu bẩn. Nhưng tấm rèm mòn xơ chỉ, và tất cả những gì được nhìn thấy bên trong cửa sổ ấy là một cái quầy trống trơn trong căn phòng tường lát gạch men trắng nứt nẻ, sàn nhà lát đá phiến rêu mốc. Charlie nhăn mũi và bước đi tiếp. Đến lúc nó tới Tiệm Ấm thì Billy đã vô bên trong tiệm và đang len lỏi qua từng ấm trưng bày trên những cái bệ và trên bàn kê khắp phòng.
Charlie đóng cửa tiệm lại, cánh cửa rít ken két trên những bản lề gỉ sét; nó theoBilly đi qua một khung cửa hình vòm vô một căn phòng khác cũng chất đầy ấm. Nhưng ở đây có bốn chiếc ghế quây quanh một cái bàn còn để trống, nơi khách hàng có thể ngồi chime ngưỡng ấm cổ đủ loại. Trên bếp lò phía sau bàn có một chiếc ấm đồng đang huýt sáo vui vẻ.
“Ta biết ngày hôm nay ta sẽ gặp mấy cưng mà.” Bà chủ tiệm nhấc cái ấm đang kêu vang xuống và rót nước sôi vô bình trà lớn màu nâu.
“Bởi vì con chuột của cháu ạ,” Billy nói, mắt dán vào đĩa bánh quy nhân bà Kettle vừa để lên bàn.
“Ừ, đúng là con chuột của cưng, cưng à.” Bà Kettle là một phũ nữ cuồn cuồn vơ bắp, tóc thẳng màu đồng quấn cao trên đỉnh đầu. Bà mặc áo bảo hộ liền quần màu xanh đậm, đi ủng da lấm chấm vết dầu, bởi vì trên hét bà là một thợ rèn – bán ấm chỉ là một thú vui và là bình phong che giấu nghề nghiệp bí mật của bà.
“Thế nó đâu rồi ạ?” Billy dáo dác nhìn quanh, hy vọng một con chuột đen xồ ra chạy về phía mình.
“Đoán coi!” bà Kettle nói.
“Cháu không đoán được,” Billy nôn nóng. “Có quá nhiều nơi cho nó trốn quá.”
Bà thợ rèn bước từ chỗ này qua chỗ nọ, tới đâu gõ gõ những chiếc ấm tới đó. Bà ngập ngừng, lại đi tiếp, dừng chân và trầm ngâm, xoa cằm. “Hay là ta đã làm mất nó rồi.”
“Kh..ô...ng!” Billy thét kên.
Nắp của cái ấm sắt khổng lồ hơi nhấc lên một chút rồi nảy xuống nền nhà nghe một tiếng choang thật lớn. Họ chờ đợi, nhưng không có con chuột đen ló ra. Thay vào đó là cái đầu của một con trăn màu xanh da trời. Nó ngúc ngoắc qua này rồi ngo ngoe qua bên kia, những sợ long chim xanh da trời tuyệt đẹp trên đầu nó phất phơ như những dải băng rôn lụa trong gió.
“Ố, cháu quên mất là con trăn ở đây.” Billy đi về phía cái đầu khà khật.
“Nó là một anh chàng tốt tính. Ta liên lạc được với nó đàng hoàng. Ta gọi nó là Solomon, nó khôn ơi là khôn.”
Vừa trông thấy Billy, con trăn xanh da trời liền trườn ra khỏi ấm, bò dưới đất và bắt đầu quấn quanh chân Billy. Nhưng Billy nâng con vật lên và nhạ nhàng quàn vô vai mình trong khi vừa ngâm nga vừa nói rin rít với nó. Con trăn đáp lại bằng âm thanh liếp chiếp, nhẹ như tiếng kêu của một con chim nhỏ.
“Tốt lắm,” Billy nói khi con chăn đã an vị. “Nó sẽ không làm cháu vô hình đâu.”
“Diệu kỳ là cưng có thể làm được như thế, Billy,” bà Kettle tấm tắc. “Solomon rất năng động trước khi nó chuẩn bị đi nghỉ trưa. Nhện, ruồi, bọ hung, kể cả chuột nó đều quấn vô thân người dài xanh da trời của nó và làm bọn chúng biến mất ngay tại chỗ.”
Charlie cảm thấy cái gì đó động đậy trên bàn chân mình. Ngay trước mắt, nó thấy sợi dây giày bắt đầu biến mất. “Billy, anh nghĩ anh đã thấy Rembrandt rồi. Nó đang ăn dây giày của anh.” Charlie giơ chân lên và đá nó về phía Billy.
Có một tiếng chít thật lớn vang lên đồng thời mái tóc trắng của Billy thình lình úp chụp xuống mặt. Billy giơ cả hai tay lên chụp rồi bụm vô lòng bàn tay thứ gì giống hệt như không khí. Nhưng Billy có thể cảm thấy những sợi ria, lông và một cái đuôi dài ốm tong.
“Solomon làm Rembrandt vậy đó,” Billy nói, lộ vẻ sung sướng vì tìm thấy con chuột nhưng lại lo cho tình trạng vô hình của chú chàng.
“Ta nghĩ cưng sẽ dàn xếp được hết mà. Con trăn đó có thể làm bất kỳ điều gì vì cưng,” bà Kettle bảo.
Billy đặt con chuột vô hình xuống sàn và bắt đầu rúc rích với con trăn trên vai. Nhưng Rembrandt rõ ràng là thích thú với sự vô hình này. Charlie cảm thấy con chuột chạy qua bàn chân mình, rồi lại thấy một cái bài lắc lư, một cái ấm rơi bộp xuống sàn. Tiếp theo là tiếng chân tí nị chạy nhí nhoáy và tiếng chít khoái chí bươn qua cửa vòm, ra tiệm phía ngoài. Bà Kettle thụp gối xuống và bắt đầu bò quah các bục trưng bày ấm; hai thằng bé bắt trước làm theo bà, rồi con chăn cũng nhập cuộc kiếm tìm – trườn ngang qua sàn với vẻ rất kịch trên cái mặt đóng vẩy của nó. Bà Kettle bỗng phá ra cười. Charlie không nín được cười, rồi thì ngay cả Billy cũng nhận thấy khía cạnh khôi hài của sự việc, nó lăn ra sàn mà vười nôn ruột.
Không ai để ý cửa tiệm mở ra chỉ một hí, không đủ rộng để cửa kít lên. Cũng không ai nghe thấy tiếng bước chân lướt nhẹ trên sàn nhà, và không ai thấy Eric Shellhorn lẻn qua cửa vòm, vù tới cánh cửa kim loại dẫn vô xưởng rèn của bà Kettle.
Tất cả sự việc đó diễn ra trong vòng chưa tới một phút, sau đó con trăn xanh da trời cuộn chặt than mình nó thành nùi. Một tiếng chít chói tai và một con chuột đen nhảy phóc ra từ cái nùi Solomon bóng loáng, chạy tới với Billy
“Cảm ơn, Solomon.” Billy nhặt con chuột đang run rẩy lên, vuốt ve và nhét nó vô túi áo.
“Một tách trà ngon nhé, mấy cưng,” bà Kettly nói, đứng dậy. “Có lẽ thêm một hay hai cái bánh quy nhân nữa.”
Hai thằng bé theo bà trở lại chiếc bàn, có Solomon trườn dưới sàn nhà bên cạnh. Khi Billy ngồi xuống, con trăn xanh da trời ngòng đầu lên và bắt đầu lúc lắc thân mình. Charlie cảm nhận được hình như nó đang lo lắng, thậm chí sợ hãi. Nó cứ ngóc nhìn lên Billy mà rít rú.
Billy trả lời con trăn bằng một tiếng ậm ừ khẽ rồi thông báo cho mọi người, “Solomon nói có ai đó đã đi vô tiệm.”
“Ớ, không có ai ngoài chúng ta,” bà Kettle nói. “Con rắn của cưng có nói là ai không?”
“Con đã hỏi, nhưng nó không biết.”
Charlie nhìn con trăn trườn trở vào ổ của nó bên trong cái ấm tổ chảng. Charlie cảm thấy bất an. Con trăn đó không có lí do gì để nó nói xạo. Nó thông thái và dịu dàng, không phải là kẻ hay đùa. Chả hiểu cái gì xui khiến Charlie hỏi. “Bà có một bức tượng quỷ lùn bằng đá ở đây phải không?”
“Đúng rồi, Charlie,” bà Kettle xác nhận. “Nó bị xích vào lò rèn của ta kể từ khi nó tấn công hai cha con bé gái tội nghiệp. Tên quỷ lùn đó đã có lần tự gây tội ác khi Eric làm cho nó sống dậy.”
Đó cũng chính là bức tượng quỷ lùn đã từng dựng bên ngoài cửa nhà bà cô Venetia của Charlie. Vào một ngày Charlie không bao giờ quên, bức tượng đã tấn công chồng mới của bà cô Venetia và con gái ông, Miranda. Người đàn ông đáng thương ấy đã bị bỏ bùa để chịu lấy bà ta, nhưng đến khi hiểu ra sự tình ông đã đưa con gái trốn thoát khỏi thành phố. Eric vẫn ở lại với mẻ ghẻ. Bà cô Venetia có một tài phép rất khó chịu: mụ ta có thể đầu độc nạn nhân bằng cách tẩm thuốc độc vô quần áo của họ. Nhưng mụ mơ đến việc sử dụng tài phép của Eric để phục vụ cho tham vọng quyền lực của mụ.
“Cháu nghĩ mình đã gặp nó rồi,” Charlie nói thủng thẳng, “Khi nó là một gã quỷ lùn thật. Tên là Ngón Cái Dị.”
“Gặp rồi ư, Charlie? Quỷ lùn?” à Kettle ngừng khuấy trà và xoáy đôi mắt màu hổ phách nhìn Charlie. “Ý cưng là gặp trong những chuyến chu du của cưng?”
“Dạ phải,” Charlie đáp, rồi kể lại cuộc phưu lưu vô xứ Badlock của nó.
Bà Kettle chìm đắm trong suy tưởng. Chỉ một lần bà nhấc tách trà lên, rất chậm và húp soạt một ngụm trà đang nguội đi nhanh chóng. Khi Charlie kể xong, bà chỉ còn biết lắc đầu một hồi như hồn xiêu phách lạc.
Trong bầu không khí im lặng khác thường, Charlie cảm thấy hơi lạnh tràn vô tiệm. Và rồi, không biết nó tưởng tượng hay là những cái ấm sáng choang kia đột ngột mất đi độ sáng?
“Cái bóng đang rắp tâm trở lại,” bà Kettle nói tự như đang độc thoại. “Hãy khóa chặt cửa tầng hầm nhà cưng lại, Charlie, rồi vứt chìa khóa đi trước khi bức tranh đó bắt cưng lần nữa.”
“Nhưng còn Hạt Đậu!” Billy phản đối.
“Cưng sẽ quên nó, Billy, nếu cưng khôn ngoan,” bà Kettle nói.
Chắc chắn bà ấy biết tụi mình không thể quên được Hạt Đậu, Charlie nghĩ. Nhưng trông bà Kettle rất nghiêm trang, trông đầy lo âu vì rắc rối bí mật nào đó, đến nõi nó phải thừa nhận lời cảnh báo của bà là cực kì nghiêm chỉnh.
“Tiệm Tượng Đá lại bị chiếm lĩnh rồi,” cuối cùng bà Kettle nói. “Nhiều năm nó bỏ không, với tượng khắc dở ở trong sân, tượng hoàn chỉnh trong tiệm thì đầy mạng nhện. Nhưng cách đây hai ngày ta nghe có tiếng búa đập. Chát! Chát! Chát! Tiếng kim loại đục đá. Ta bèn rời lò rèn để đi ra ngõ hẻm đằng sau dãy tiệm trên đường này. Ta nhìn vô sân tiệm Tượng Đá và thấy hắn: một gã đàn ồn hung tợn, ria mép vàng và đội mũ cao bồi. Melmott, hắn giới thiệu đí là tên hắn. Nhưng hắn chỉ nói với ta tất cả có thế thôi. Ta e rằng hắn là kẻ đầu tiên trong số nhiều.”
“Đầu tiên trong số nhiều cái gì ạ?” Charlie hỏi.
“Thầy pháp, cưng, nếu mong muốn dùng một từ mỹ miều hơn. Đã có thời phố này đấy ắp bọn họ, nhưng đến lúc ta được thừa kế nơi này từ ông cố của ta thì bọn họ tất cả đã đi rồi. Và giờ...” Bà Kettle thu dọn cái tách và đem ra bồn rửa bên cạnh bếp lò.
“Giờ thì sao ạ?” Billy thúc bách.
“Giờ những kẻ xấu đang trở lại. Không phải chỉ mình Eric thôi đâu, mà cả những đứa trẻ ở Học viện Bloor, thằng dìm chết người, thằng nam châm, đứa chuốc độc, Manfred-kẻ-thôi-miên, và lại còn mụ phù thủy đó, mụ Tilpin, mẹ của thằng nam châm – phe bọn chúng đang mạnh lên, mấy cưng à. Những người như chúng ta phải đề phòng và canh chừng, bảo vệ lẫn nhau. Ta là người duy nhất còn sót lại trên phố này, hai cưng à. Người duy nhất có thể ngăn cản bọn chúng. Ta linh cảm mạnh mẽ là bọn chúng sắp sửa làm gì đó. Chưa biết là cái gi. Nhưng ta đang cảnh giác cao độ.”
“Bà Kettle, cho cháu xem bức tượng đá được không?” Charlie hỏi.
“Bây giờ ư, cưng muốn xem thật à?” Bà Kettle liếc nhìn cánh cửa kim loại, ngại ngùng cho Charlie vô lò rèn của mình.
“Cháu chỉ muốn chắc chắn Ngón Cái Dị vẫn còn ở đó thôi.” Mối lo âu của Charlie đang tăng dần.
Bà Kettle thở dài, chùi bàn tay ướt vô bộ đồ bảo hộ và mở cánh cửa sắt ra. Charlie bước vô lò rèn. Trông nó vẫn hệt như lần trước Charlie vô. Những bức tường gạch tro trụi, nền đá bẩn bụi và đủ loại dụng cụ treo thòng từ nhà xuống. Cái đe nằm ở giữ phòng, và ngọn lửa phì phụt được nghe thấy đằng sau một cánh cửa sắt nhỏ ở chân ống khói.
Trong góc tối có một bức tượng lùn bè bè. Một sợ xích chập đôi tròng quanh vòng hông dày cui của hắn, hai đầu sắt móc vô những cái khoen sắt lớn ở trên tường. Charlie nhìn trừng trừng vô bức tượng, mắt nó dần quen với bóng tối. Giờ nó có thể thấy cái mũi rộng bự thịt, cái miệng mỏng méo xệch và đôi mắt ti hí.
“Hài lòng chưa, Charlie?” bà Kettle gọi to.
“Dạ.” Charlie định bước trở ra thì bất chợt nó thấy vằn sáng lóe lên trong con mắt bên trái của bức tượng quỷ lùn. Một cái chớp mắt chăng? Điếng người vì cái chớp mắt đó, lại thêm hoảng hốt về tính chất vủa sự việc, Charlie sờ soạng ra sau tìm cánh cửa.
Nhưng nó quá trễ. Một tiếng động xé tai và bức tượng bung thoát khỏi bức tường, bay chíu về phía Charlie. Nó né, kèm tiếng thét khiếp vía, còn Ngón Cái Dị lướt qua cánh cửa đang mở, vút ra phòng trưngày ấm.
Trong khi toàn thân thân run lên mất hồn, Charlie cố chạy theo bức tượng quỷ lùn. Nó thấy bưc tượng tông thẳng vô bà Ketlle. Bà thợ rèn không có cơ may né được. Ngón Cái Dị đâm trúng đầu bà, khiến bà hộc lên một tiếng và xuội xuống sàn.
Chưa thỏa mãn với cú đòn này, bức tượng quỷ lùn bắt đầu phá tanh bành đồ đạc, xô những cai ấm đổ lộn nhào xuống nền nhà.
Billy nằm úp dưới sàn gầm bàn, hai tay ôm lấy đầu. “Không, không, không,” nó rên rỉ.
“Suỵt!” Charlie thì thào, bò về phía Billy.
Một bầu im lặng hoàn toàn theo sau lời thì thầm của thằng bé, Charlie cảm nhận hình như tên quỷ lùn đang suy tính. Hắn sẽ làm gì tiếp? Liệu hắn có phát hiện ra bọn chúng? Liệu một tên quỷ lùn bằng đá có thể nghe hoặc ngửi? Giờ hắn đang ở góc nào? Charlie nín thở.
Một tiếng choang! Báo hiệu tên quỷ lùn đang ở đâu. Hắn đã đi qua khung cửa vòm ra tiệm ngoài, và giờ đang tiếp tục nghiền, bóp, bẻ và đập bể mọi cái ấm trên đường đi. Tiếng sắt và đồng, tiếng thép và men, thậm chí cả tiếng đất sét bể tạo thành một mớ âm thanh Charlie chưa từng bao giờ tưởng tượng ra. Nó tự hỏi bà thợ rèn bị thương có nghe thấy tiếng những cái ấm yêu quý của bà bị tàn pjas kinh hoàng hay không – liệu trái tim tan vỡ của và có hòa vô tiếng hủy hoại kinh thiên động địa này?
Khi đã tàn phá xong tất cả những gì trong tầm mắt, hắn sẽ quay lại chỗ mình cho mà coi; hắn sẽ lập tức cày dưới gầm bàn chỗ Billy đang núp, Charlie nghĩ. “Cơ hội duy nhất của bọn mình là bò vô lò rèn và khóa cửa ở yên trong đấy,” Charlie thì thào. “Nhưng tụi mình phải đưa bà Kettle đi cùng. Le lên, Billy! Tốt hơn phải đi ngay trong khi hắn mải đập phá ngoài tiệm.”
Nhưng Billy không thể nhúc nhích. Nó vẫn nằm co chèm mẹp. Không một âm thanh phát ra từ nó.
“Billy!” Charlie nắm cánh tay nó lắc
“Ừm,” Billy rên rỉ.
“Billy, tụi mình phải...”
Charlie không thể kịp nói hết câu. Nổi bật lên trên tiếng đập phá của tên quỷ lùn, nó phân biệt được tiếng kẹt cửa rất to. Ai đó đang đi vô.
Một tiếng thịch mạnh, như thể tên quỷ lùn vừa đáp từ trên cao xuống. Và rồi im lặng.