Chương : 2
Hai tuần sau
Elissande Edgerton đứng trước cửa dinh thự tại Highgate Court. Mưa rơi lộp độp xuống chiếc ô đen của cô; màn sương mù xám lạnh che mờ mọi thứ ngoại trừ lối đi vào nhà.
Tháng Tám, và bầu trời tựa như tháng Mười một.
Cô mỉm cười với người đàH ông trước mặt mình. “Chúc chú một chuyến đi an toàn”.
Edmund Douglas đáp lại nụ cười của cô. Vẻ ngoài tình cảm này là trò chơi của ông ta. Không khóc lóc trong nhà này, cháu hiểu không, Elissande yêu quý của ta? NhìH dì cháu kìa. Bà ấy không đủ mạnh mẽ và thông minh để mỉm cười. Cháu có muốn giống bà ấy không?
Ngay từ khi mới sáu tuổi, Elissande đã biết rằng cô không muốn giống như dì mình, một bóng ma khóc lóc, nhợt nhạt. Cô đã không hiểu vì sao dì cô khóc. Nhưng bất cứ khi nào nước mắt của dì Rachel trào ra, bất cứ khi nào chú cô đặt cánh tay quanh vai vợ và dẫn bà về phòng, Elissande luôn lẩn ra khỏi nhà và chạy đi xa hết mức cô dám, trái tim đập thình thịch vì sợ hãi, nổi loạn và cơn oán giận cháy như đám than âm ỉ.
Vì thế cô đã học mỉm cười.
“Cảm ơn, cháu yêu”, Edmund Douglas nói.
Nhưng ông ta không hề chuyển động để bước vào cỗ xe độc mã đang đợi. Ông ta thích kéo dài giây phút tạm biệt – cô nghi rằng ông ta biết rất rõ cô mong mỏi ông ta đi như thế nào. Cô cười tươi hơn nữa.
“Giúp chú chăm sóc gì cháu trong lúc chú đi vắng nhé”, ông ta nói và ngước mặt lên cửa sổ phòng ngủ vợ mình. “Cháu biết chú quý trọng dì ấy nhiều như thế nào rồi đấy”.
“Tất Hhiên, thưa chú”.
Vẫn mỉm cười, cô nghiêng người hôn vào má ông ta, kiểm soát nỗi ác cảm với sự thành thạo khiến cổ họng cô sít lại.
Ông ta đòi hỏi biểu hiện nồng ấm này trước mặt người làm. Không phải người nào cũHg giỏi ngụy trang sự độc ác của mình đến mức có thể lừa gạt được cả người làm trong nhà. Trong làng người ta đã nghe những tin đồn về Squire Lewis thích véo mông các cô hầu gái, hay bà Stevenson pha nước vào bia dành cho người làm. Nhưng nhậH xét duy nhất lan truyền về ông Douglas là lòng ngưỡng mộ nhất mực về sự kiên nhẫn như thánh của ôHg, nào là vì bà Douglas quá yếu đuối – và hơi có vấn đề về thần kinh.
Cuối cùng ông ta trèo vào xe. Người đánh xe cúi rạp mình trong chiếc áo mưa và giật dây cương. Bánh xe lăn lép nhép trên lối đi trải sỏi. Elissande vẫy cho đến khi cỗ xe vòng qua khúc quanh trên đường: rồi cô hạ tay xuống và đánh rơi nụ cười.
Vere thường ngủ rất ngon trên một con tàu đang chạy. Đã nhiều lần trong đời anh lên Tàu tốc hành Scotland đặc biệt từ London đến Edinburgh chẳng vì lý do gì ngoài tám tiếng đồng hồ ngủ say sưa không mộng mị mà nó mang đến.
Chuyến đi đến Shropshire không mất tới phân nửa thời gian đến Edinburgh và có vài lần đổi tàu. Nhưng anh vẫn thích, có lẽ đó là thời gian anh thấy dễ chịu nhất sau những giấc ngủ trên đường từ London đến Gloucestershire, nơi anh đã ở đó hai tuần trước để lấy lại một bản kế hoạch tấn công bất ngờ mà không hiểu sao Văn phòng Đối ngoại đã ‘để mất’. Một nhiệm vụ nhạy cảm, xét đến mục tiêu của kế hoạch là Tây Nam Châu Phi của Đức và quan hệ với Đức đang ở giai đoạn căng thẳng nhất.
Anh hoàn thành nhiệm vụ mà không gây ra chút sóng gió nào trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, Hiềm vui đến từ thành công này hoàn toàn thầm lặng. Anh đã phải sống một cuộc đời khác để theo đuổi Công lý, chứ không phải để cứu giúp những tên Hgốc không thể bảo vệ những tài liệu nhạy cảm.
Dẫu cho những nhiệm vụ đó vỗ về cơn đói Công lý của anh, thì sự thỏa mãn đó cũng Hgắn ngủi và chóng tàH, như đám than hồng yếu ớt sắp thành tro, theo sau là tình trạng kiệt sức kéo dài trong nhiều tuần. Một cảm giác trống rỗng mà giấc ngủ sâu nhất, thoải mái nhất cũng không thể lấp đầy.
Xe ngựa của quý bà Kingsley cứ đến đón anh lướt qua những dặm đường đồng quê xanh trập trùng. Anh không thể ngủ nữa và cũng không muốn nghĩ về vụ điều tra tiếp theo. Đúng là cuộc sống ẩn dật tuyệt đối của Edmund Douglas đòi hỏi phải tính toán nhiều hơn bình thường, nhưng cuộc điều tra này cũng chỉ là một trong số những điệp vụ nhạy cảm thường gặp trong nghề nghiệp của anh, những vụ mà cảnh sát địa phương không thể giải quyết, và thậm chí thường xuyên không biết đến.
Anh đưa mắt nhìn ra ngoài cỗ xe. Thay vì là đồng cỏ tươi tốt vẫn còn ướt mưa nhưng lấp lánh dưới mặt trời chiếu mới ló dạng, anh nhìn thấy một khung cảnh khác: những con sóng vỗ rì rào, những vách đá cao, hoa thạch nam nở rộ tím cả đồng cỏ một lối đi trên đỉnh dốc trải dài trước mặt; một bàn tay ấm áp vững vàng nắm lấy tay anh.
Anh biết con đường đó. Anh biết những vách đá, những đồng cỏ và bờ biển – bờ biển của Sommerset, phía Bắc Devon và Cornwall là những địa điểm đẹp tuyệt vời mà anh vẫn đến thăm mỗi khi có cơ hội. Tuy nhiên, cô gái nắm lấy tay anh chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng.
Nhưng anh biết tiếng bước chân nhẹ nhàng và uyển chuyển của cô. Anh biết chiếc váy vải cứng của cô: Nó khẽ sột soạt khi cô bước đi, một âm thanh anh chỉ có thể nghe thấy khi không khí thật tĩnh lặng và ở trên cao, cách xa tiếng ầm ào của những con sóng. Và anh biết hình dáng chiếc gáy của cô ẩn bên dưới chiếc mũ rộng vành bảo vệ làn da cô khỏi ánh mặt trời: anh đã khoác áo choàng của anh lên vai cô nhiều lần, khi áo cô không đủ sức chống lại thời tiết lạnh và hay thay đổi ở bờ biển.
Cô là người đi bộ đường dài không biết mỏi mệt, là người bạn chân thành, và người tình ngoan ngoãn ngọt ngào về đêm.
Trí tưởng tượng giống như những tù Hhân, nếu được phép luyện tập hợp lý dưới sự giám sát thì ít có khả năng dấy lên một cuộc nổi loạn. Vì thế anh nghĩ về cô thường xuyên: khi anh không thể ngủ được, khi anh quá mệt mỏi để nghĩ về thứ gì khác, khi anh sợ phải về nhà sau hết tuần này đến tuần khác mong mỏi được yên tĩnh và cô độc. Tất cả những gì cô phải làm là đặt một bàn tay lên cánh tay anh, cái chạm của cô ấm áp chứa đựng sự thông hiểu và quan tâm, và anh sẽ ổn thôi, sự cay độc của anh được xoa dịu, nỗi cô đơn của anh vơi bớt và những cơn ác mộng của anh trôi vào quên lãng.
Anh đủ tỉnh táo để không cho cô một cái tên, hoặc tưởng tượng ra chân dung cô thật chi tiết – theo cách này anh vẫn có thể giả vờ Hhư một ngày nào đó anh sẽ gặp cô, trong một góc kín đáo của phòng khiêu vũ quá đông đúc và sáng lóa. Nhưng anh cũng đủ mơ màng để hình dung ra nụ cười của cô, một nụ cười hoàn hảo và đáng yêu đến mức anh không thể không hạnh phúc trong sự rạng ngời của nó. Cô không mỉm cười nhiều, bởi vì anh thường khôHg hạnh phúc, ngay cả trong tưởng tượng. Nhưng khi cô mỉm cười, cảm xúc trong trái tim anh giống như khi anh lên sáu và lần đầu tiên được chạy vào lòng đại dương,
Tuy nhiên, ngày hôm nay anh không muốn có cảm xúc, mà chỉ cần sự bầu bạn tĩnh lặng. Vì thế họ đi bộ cùng nhau, trên con đường mà anh chỉ đi dạo một mình trong cuộc đời thực. Đến lúc cỗ xe đi qua cổng của dinh thự Woodley, trang viên mà quý bà Kingsley thuê để ở, anh đang đứng bên cạnh cô trong tòa lâu đài đổ nát của Vua Arthur, bàn tay đặt trên tấm lưng thon nhỏ của cô, họ nhìn xuống những quả cầu sủi bọt tung tóe xa xa bên dưới.
Có lẽ anh đã ở lại đó lâu hơn – anh rất giỏi nói tạm biệt và xin chào khi vẫn ở trong trạng thái mơ màng, nếu không phải anh nhìn thấy em trai mình đang vẫy tay trước ngôi nhà.
Hình ảnh đó đột ngột đưa anh trở lại thực tại.
Anh nhảy khỏi xe, vấp chân vào cây ba toong của mình. Freddie đỡ được anh.
“Cẩn thận nào, Penny”.
Vere đã là Tử tước Belgrave từ giây phút anh hít hơi thở đầu tiên. Anh trở thành Hầu tước của Vere ở tuổi mười sáu, sau cái chết của cha mình. Ngoài người mẹ quá cố cùng vài người bạn cũ và Freddie, không ai gọi anh bằng cái têH thân mật này, nó là En viết tắt từ tên thánh Spencer này của anh.
Anh ôm Freddie. “Em đang làm gì ở đây hả ông tướng?”
Vere hiếm khi nghĩ mình đang lao đầu vào nguy hiểm. Những cuộc điều tra của anh không yêu cầu phải dùng vũ khí và chính vỏ bọc công khai hiện tại đã che chở cho anh khỏi những nghi ngờ thái quá. Nhưng Freddie chưa bao giờ ở gần anh trong lúc anh đang làm nhiệm vụ. Freddie là thứ duy nhất đã đi đúng hướng trong cuộc đời Vere. Cậu bé nhút nhát làm Vere phải bận tâm lo lắng đã trưởng thành và là một chàng trai trẻ cao quý ở tuổi hai tám: cao quý nhất trong số những người quen của Vere. Người cao quý nhất trong số những người quen của bất kỳ ai, anh nghĩ với niềm tự hào ngớ ngẩn.
Hai tuần ở đồng quê đã nhuộm đỏ làn da sáng của Freddie và tẩy những lọn tóc hung hung sang màu sáng hơn. Anh nhặt cây ba toong Vere làm rơi và kín đáo chỉnh thẳng chiếc ca-vát luôH để nghiêng ba mươi độ của Vere.
“Kingsley hỏi em có muốn đến thăm dì cậu ấy không. Em nói có, khi cậu ấy nói anh cũng được mời”.
“Anh không biết là gia đình Wrenworth mời Kingsley đến nhà họ”.
“À, em không ở nhà Wrenworth. Em rời khỏi nhà họ thứ Năm vừa rồi và đi đến nhà Beauchamp”.
Và Freddie nên ở lại đó. Cho dù phạm vi công việc của anh không gây tổn hại về thân thể, anh vẫn thấy an tâm hơH nếu Freddie không đến.
“Em vẫn thích ở nhà Wrenworth mà. Sao lần này em rời đi sớm thế?”
“Ồ, em không biết”. Freddie kéo ống tay áo của Vere xuống, nó hiếm khi không cuộn lên ở những vị trí bất định. “Em muốn đến một nơi khác”.
Điều này làm Vere khựng lại. Bồn chồn không phải một điểm anh thường thấy ở Freddie, trừ phi Freddie đang bất an về chuyện gì đó.
Một tiếng thét như tiếng thét của một trinh nữ đang đối diện với hàm răng rồng phá vỡ không gian tĩnh lặng của miền quê.
“Chúa lòng thành, chuyện gì thế?” Vere thốt lên với giọng Hgạc nhiên rất đáng tin.
Câu hỏi được trả lời bởi rất nhiều tiếng la hét khác. Cô Kingsley, cháu gái của quý bà Kingsley vừa lao ra khỏi nhà vừa gào thét thất thanh. Và đâm sầm vào Vere – anh có một tài năHg cực kỳ lớn là ngáng đường của người khác.
Anh bắt lấy cô. “Có chuyện gì thế, cô Kingsley?”
Cô Kingsley vùng vẫy trong tay anh. Cô dừng la hét trong giây lát nhưng chỉ để hít một hơi không khí. Và rồi cô há miệng và thốt ra một tiếng hét kinh hoàng nhất mà Vere từng nghe.
“Tát cô ấy đi”, anh cầu viện Freddie.
Freddie thất kinh. “Em không thể tát một phụ nữ!”
Thế là Vere phải làm. Cô Kingsley im bặt và lả người đi. Cô thở hổn hển và chớp mắt, rồi đờ đẫn nhìn Vere.
“Cô Kingsley, cô có ổn không?” Freddie hỏi.
“Tôi… tôi… Lạy Chúa, chuột, lũ chuột…”
Cô bắt đầu nức nở.
“Giữ cô ấy”. Vere dúi cô vào vòng tay tử tế và biết thương xót hơn của Freddie.
Anh chạy vào Hhà và dừng khựng lại ở giữa hành lang. Một hoặc hai tá chuột, anh đã nói với Holbrook như thế. Nhưng phải có đến hàng trăm con, đang chạy như nước suối lan khắp tường và cầu thang, leo lên lan can và chạy dọc xuống những tấm rèm, xô đổ bình hoa sứ với một tiếng rầm to đến mức ngay cả Vere đang đứng chết sững cũng phải nhảy lên và bàng hoàng trước cảnh tượng này.
“Tránh đường!”
Kingsley, cháu trai của quý bà Kingsley chạy ra, một khẩu súng lăm lăm trong tay. Ngay lúc cậu ta chạy đến giữa đại sảHh, một con chuột nhỏ nhảy xuống từ chùm đèn.
“Kingsley, phía trên cậu!” Vere hét lên.
Quá muộn. CoH chuột hạ cánh ngay đầu Kingsley. Cậu ta hét lên. Vere quăng mình xuống sàn nhà khi khẩu súng của Kingsley phát nổ.
Kingsley lại thét lên. “Mẹ kiếp, nó ở trong áo khoác của tôi!”
“Tôi sẽ không đến gần cậu nếu cậu không bỏ khẩu súng xuống trước! Và đừng ném nó, nó có thể nổ nữa đó”.
“Á!” Khẩu súng của Kingsley nặng nề rơi bịch xuống. “Giúp tôi với!”
Cậu ta giật đùHg đùng như con rối của người điên. Vere lao đến và xé toạc chiếc áo khoác ban ngày của Kingsley.
“Tôi Hghĩ nó ở trong áo gi-lê. Chúa toàn năng, đừng để nó chui vào quần của con”.
Vere xé một phần áo gi-lê của Kingsley. Và con súc vật nhỏ ở đó, mắc dưới dây đeo quần. Vere túm đuôi và vứt nó sang một bên trước khi nó có thể vặn người lại và cắn anh.
Kingsley chạy phắt ra khỏi cửa trước trong chiếc áo sơ mi. Vere lắc đầu. Nhiều tiếng gào thét khác đến từ một căn phòHg bên trái anh. Anh vội vã đi đến và mở cửa – và ngay lập tức phải túm lấy mép cửa trên và đu người lên khỏi sàn nhà khi đàn chuột chạy ào ra.
Quý bà Kingsley, ba quý cô trẻ, hai quý ông, cộng thêm một người hầu đang cố gắng đứng trên đồ đạc phía trên một biển chuột, hai trong ba quý cô đang gào thét, anh Conrad tham gia cùng họ với sự hào hứng và âm lượng tương đương. Quý bà Kingsley, đứng trên cây đàn pianô, dùng giá nhạc để đập bất kỳ con chuột nào dám trèo lên ốc đảo an toàn của cô. Tên người hầu đang bảo vệ các quý cô bằHg cây cời lửa trong tay.
Khi lũ chuột rút khỏi phòng khách, Vere giúp những vị khách bị bao vây của quý bà Kingsley an toàn bước xuống sàn nhà. Cô Beauchamp run rẩy nhiều đến mức anh phải bế ra ngoài.
Anh thấy quý bà Kingsley chống một tay vào tường, bàn tay khác ôm lấy bụng, cằm cô bạnh ra.
“Cô ổn chứ?”
“Tôi không nghĩ mình cần cố gắng tỏ ra ốm yếu khi đến gặp cô Edgerton”, cô nói, giọng cô chỉ cao hơH tiếng thì thầm một chút. “Holbrook là gã chết bầm”.
“Ở vị trí cao nhất của cao nguyên là một nhà thờ Hhỏ của Santa Maria del Soccorso, ở đó có một ẩn sĩ cất giữ một quyển sách ghi tên khách viếng thăm, và bán rượu. Tầm nhìn từ mũi đất này hấp dẫn và hùng vĩ đến kỳ lạ, Hhững vách đá cheo leo thẳng đứng, và đường bờ biển xinh đẹp theo mọi hướng nhìn…”
Elissande nhìn thấy nó thật rõ ràng: Đảo Capri, hiện lên như thiên đường trên Địa Trung Hải. Cô đang đi bộ men theo những vách đá sừng sững, mái tóc tung bay trong gió, tay cô cầm một bó cẩm chướng dại. Không có âm thanh nào ngoài tiếng sóng và chim mòng biển, không có ai ngoài những người dân chài đang vá lưới xa xa ở bên dưới, và không có cảm giác nào ngoài cảm giác trong lành và thanh bình của sự tự so tuyệt đối và thuần túy.
Cô chỉ vừa kịp đỡ được dì cô khi bà ngã khỏi chiếc ghế trong nhà vệ sinh.
Đã hơn bốn tám tiếng đồng hồ kể từ khi dì Rachel đi vệ sinh lần cuối, ảnh hưởng của chứng liệt người. Elissande đã dỗ dành dì Rachel ngồi dậy trong khoảng mười lăm phút sau bữa trưa, trong lúc cô đọc to một đoạn trong cuốn sách hướng dẫn du lịch đến miền Nam nước Ý để giết thời gian. Nhưng nhờ vào cách đọc ít hấp dẫn của cô hoặc nhờ vào cồn thuốc phiện mà cô vẫn không thể tước bỏ của dì cô, dì Rachel đã thiu thiu ngủ và cái chậu bên dưới vẫn trống không một cách đáng lo.
Cô nửa kéo, nửa vác dì Rachel ra khỏi nhà vệ sinh. Người phụ nữ lớn tuổi trong vòng tay cô nặng hơn một bó củi một chút, với sức sống và sự linh hoạt cũng bằng khoảng đó. Một trong những tài năng của chú cô là phát hiện ra những người phụ thuộc mình không thích điều gì và đổ chúng lên đầu họ. Vì lý do đó mà váy ngủ của dì Rachel nồng nặc mùi đinh hương, mùi mà dì không thích.
Mùi mà dì đã không thích. Trong nhiều năm nay, dì Rachel gần như luôn ở trong trạng thái mơ màng của cồn thuốc phiện và ít nhận biết mọi thứ, miễn là bà uống thuốc đúng giờ. Nhưng Elissande vẫn quan tâm, cô mang cho bà chiếc váy ngủ không mùi lấy từ phòng mình.
Cô nhẹ nhàng đặt người dì lơ mơ ngủ xuống giường, rửa tay, rồi thay váy ngủ cho bà, và đảm bảo chắc chắn rằng dì Rachel nằm đúng bên. Cô cẩn thận ghi lại số giờ dì Rachel nằm mỗi bên: Chứng bệnh thối loét do nằm giường rất dễ xảy ra với những người nằm trên giường quá nhiều.
Cô dém chăn quanh vai dì Rachel và nhặt cuốn sách du lịch bị rơi xuống sàn trong lúc vội vã đỡ bà. Cô đã để mất dấu chỗ đang đọc. Nhưng điều đó không quan trọng. Khi đọc về thành phố Manfredonia [1] trên bờ biển Adriatic, được một anh hùng phát hiện trong Cuộc chiến thành Troy, cô cũng cảm thấy hạnh phúc như thế.
[1] Một thành phố thuộc tỉnh Foggia trong vùng des Puglia của Ý.
Cuốn sách bay khỏi tay cô, đập sầm vào bức tranh treo trên tường đối diện giường – bức tranh mà Elissande cố hết sức không bao giờ nhìn nó – và rớt bịch xuống sàn. Bàn tay cô bụm lấy miệng. Cô ngoái đầu về phía dì Rachel. Nhưng dì Rachel gần như không động đậy.
Elissande nhanh chóng nhặt cuốn sách lên và kiểm tra. Tất nhiên là có tổn thất: Trang sách cuối cùng đã rời khỏi bìa sau.
Cô khép cuốn sách lại và siết chặt nó. Ba ngày trước cô đã cầm lược chải đầu đập mạnh vào chiếc gương cầm tay. Hai tuần trước đó cô đã ngây người nhìn một hộp thuốc diệt chuột asen trắng mà cô tìm thấy trong tủ để chổi.
Cô sợ rằng cô đang từ từ đánh mất sự tỉnh táo.
Cô đã không muốn trở thành bảo mẫu của dì mình. Cô đã định bỏ đi ngay khi cô đủ tuổi để tìm kiếm một công việc ở nơi nào đó, bất cứ nơi nào khác.
Nhưng chú cô biết điều đó. Ông ta đưa những y tá đến, để cô thấy dì Rachel co rúm lại và gào khóc vì những phương pháp chữa trị ‘y học’ điên khùng của họ, để cô buộc phải bước vào, để lòng trung thành và biết ơn, và những điều tốt đẹp khác biến thành những xiềng xích liểng xiểng, xấu xí trói cô vào ngôi nhà này, vào sự khống chế của ông ta.
Cho đến khi tất cả lối thoát cô còn lại là vài cuốn sách. Cho đến khi ngày của cô quay vòng quanh sự đều đặn hay sự bất thường của dì cô. Cho đến khi cô quăng cuốn sách quý giá hướng dẫn đến miền Nam nước Ý vào một bức tường, bởi vì sự kiểm soát vượt khỏi tầm tay cô, thứ duy nhất cô có thể nương tựa, đang bị xói mòn dưới sức nặng của sự cầm tù.
Tiếng xe ngựa trên lối đi khiến cô túm lấy váy và chạy ào ra khỏi phòng dì Rachel. Chú cô thích thông báo sai ngày về cho cô: Trở về sớm để cắt ngắn sự ân xá nhờ sự vắng mặt của ông ta; về muộn hơn để đập tan hy vọng rằng có lẽ ông ta đã gặp được kết thúc xứng đáng nhất trong lúc đi xa. Và ông ta đã làm điều này trước đây: nói là đi xa mà thực ra chỉ là chạy xe quanh vùng rồi trở về nhà sau vài giờ, tuyên bố rằng ông ta đã thay đổi ý định bởi vì quá nhớ gia đình.
Cô vội vã đút cuốn sách hướng dẫn du lịch vào ngăn kéo để đồ lót trong phòng mình. Ba năm trước chú cô đã thanh lọc tất cả những quyển sách viết bằng tiếng Anh, ngoại trừ Kinh thánh và một tá cuốn sách tập hợp những bài thuyết giảng về dấu hiệu thịnh nộ của Chúa. Từ khi tìm thấy một vài cuốn sách ngẫu nhiên thoát khỏi sự thanh trừng này, cô đã canh giữ chúng với sự thận trọng sợ hãi của một con chim mẹ xây tổ giữa một bầy mèo.
Sau khi giấu kín cuốn sách, cô đến cửa sổ gần nhất nhìn ra lối đi. Lạ lùng thay, đỗ trước nhà không phải cỗ xe ngựa độc mã của chú cô mà là một cỗ xe ngựa bốn bánh mui trần với hàng ghế bọc đệm màu xanh ngọc.
Một tiếng gõ cửa nhẹ vang lên. Cô quay lại. Bà Ramsay, quản gia của Highgate Court đứng ở ngưỡng cửa. “Thưa cô, có quý bà Kingsley đến chơi”.
Các điền chủ và cha xứ địa phương thỉnh thoảng vẫn viếng thăm chú cô. Nhưng hầu như chưa bao giờ có phụ nữ đến thăm Highgate Court, vì dì cô nổi tiếng trong vùng là có sức khỏe đặc biệt mong manh và Elissande cũng nổi tiếng tương đương – nhờ vào những bình luận công khai có chiến lược của chú cô – là không thể rời giường bệnh của dì.
“Ai là quý bà Kingsley?”
“Bà ấy ở dinh thự Woodley, thưa cô”.
Elissande mang máng nhớ lại rằng dinh thự Woodley, cách Highgate Court hai dặm về phía tây bắc, đã được cho thuê một thời gian trước. Thế thì quý bà Kingsley là hàng xóm mới của họ. Nhưng không phải là một người hàng xóm mới sẽ gửi danh thiếp trước rồi mới đích thân đến thăm hay sao?
“Bà ấy nói có tình huống khẩn cấp ở dinh thự Woodley và mong cô đón tiếp bà ấy”, bà Ramsay nói.
Vậy thì quý bà Kingsley đích thực đã tìm sai người rồi. Nếu Elissande có thể làm gì cho bất kỳ ai, cô đã bỏ trốn với dì cô nhiều năm trước. Hơn nữa, chú cô sẽ không muốn cô tiếp khách mà không có sự đồng ý của ông ta.
“Nói với bà ấy là tôi đang bận chăm sóc dì của tôi”.
“Nhưng thưa cô, quý bà Kingsley đang quẫn trí”.
Bà Ramsay là một phụ nữ đúng đắn, trong suốt mười lăm năm làm việc ở Highgate Court, bà không hề chú ý là cả hai người phụ nữ trong nhà cũng khá quẫn trí – chú cô có biệt tài thuê được những người làm nhất định không chịu ngó nghiêng xung quanh. Thay vì ngẩng cao đầu và cư xử với một chút nghiêm trang, có lẽ đôi khi Elissande cũng nên bị cuốn hút trước những chuyện tầm phào.
Cô hít một hơi thở sâu. “Trong trường hợp đó, bà có thể đưa bà ấy vào phòng khách”.
Cô không có thói quen lánh xa những người phụ nữ quẫn trí.
Quý bà Kingsley gần như cuống hết cả lên khi thuật lại câu chuyện thảm họa chuột mang hơi hướm Kinh thánh. Sau khi kể xong, cô ấy cần đến cả một tách trà đen nóng trước khi màu xanh nhợt nhạt trên má tan dần.
“Tôi rất tiếc khi nghe khó khăn của cô”, Elissande nói.
“Tôi không nghĩ cô đã nghe đến phần tệ nhất”, quý bà Kingsley trả lời. “Cháu trai và cháu gái tôi đã đến chơi và mang theo bảy người bạn. Bây giờ tất cả chúng tôi không có lấy một chỗ để ở. Điền chủ Lewis đã có đến hai lăm người khách. Và nhà trọ trong làng thì chật kín, hình như sẽ có một đám cưới trong hai ngày nữa”.
Nói cách khác, cô ấy muốn Elissande đón tiếp chín – không, mười người lạ. Elissande kìm nén một tràng cười kích động. Yêu cầu như thế đối với bất kỳ người hàng xóm nào mới chỉ quen biết là quá nhiều. Và quý bà Kingsley không biết tí gì về việc cô ấy đang yêu cầu người hàng xóm cá biệt này nhiều như thế nào.
“Ngôi nhà của cô sẽ không sử dụng được trong bao lâu, quý bà Kingsley?” Đây có vẻ là một câu hỏi lịch sự.
“Tôi hy vọng nó sẽ ở được trong ba ngày nữa”.
Chú cô dự định sẽ đi vắng ba ngày.
“Tôi quả thực rất ngại khi nghĩ đến chuyện đặt vấn đề trực tiếp với cô như thế này, cô Edgerton, nhưng chúng tôi đã hết cách rồi”, quý bà Kingsley nói hết sức chân thành. “Tôi đã nghe rất nhiều về sự tận tụy đáng ngưỡng mộ của cô với bà Douglas. Nhưng chắc chắn là cô phải có những lúc cô đơn khi không có sự bầu bạn của bạn bè cùng trang lứa – và tôi đang có bốn quý cô trẻ thân thiện và năm quý ông trẻ đẹp trai.”
Elissande không cần bạn đồng trang lứa, cô cần tiền. Cô có rất nhiều con đường rộng mở cho chính mình – cô có thể trở thành một cô giáo, một người đánh máy, hay một người bán hàng. Cô cần một khoản tiền sẵn sàng để có thể thuê nhà và chăm sóc một người bệnh khi có bất kỳ cơ hội trốn thoát nào thành công. Sao quý bà Kingsley không đề nghị cô một trăm bảng thay vào đó nhỉ?
“Năm quý ông đẹp trẻ đẹp trai, chưa kết hôn”.
Khao khát được cười thật to một cách kích động quay lại. Một người chồng. Quý bà Kingsley nghĩ Elissande muốn lấy chồng, khi mà hôn nhân lại là tai họa trong cuộc đời của dì Rachel.
Chưa bao giờ có một người đàn ông hiện diện trong tất cả những giấc mơ về tự do của cô; luôn luôn chỉ có mình cô, trong sự cô đơn tuyệt vời, hoàn toàn một mình cô.
“Và tôi chắc là chưa nhắc đến”, quý bà Kingsley tiếp tục, “rằng một trong những anh chàng trẻ ở chỗ tôi, thực ra, anh chàng đẹp trai nhất cũng ngẫu nhiên là một hầu tước?”
Trái tim Elissande đột nhiên đập thình thịch. Cô không quan tâm đến chuyện đẹp trai – chú cô là một người rất đẹp trai. Nhưng hầu tước là một người quan trọng, có quyền lực và những mối quan hệ. Một hầu tước có thể bảo vệ cô – trước chú cô.
Giả sử rằng anh ta kết hôn với Elissande trong vòng ba ngày – hoặc là một khoảng thời gian ngắn trước khi chú cô trở về.
Rất có thể, phải không? Rồi khi cô đón tiếp mười vị khách chú cô đã không mời, một hành động nổi loạn hiển nhiên cô chưa bao giờ dám làm như thế và bắt đầu thực hiện mục tiêu của mình sau đó thì sao?
Sáu tháng trước, vào ngày giỗ của Christabel, ông ta đã cất cồn thuốc phiện của dì Rachel. Trong ba ngày dì Rachel đã chịu đựng như một người buộc phải trải qua một cuộc phẫu thuật mà không có thuốc gây mê. Elissande, bị cấm đến gần dì Rachel, đã đấm vào chiếc gối trên giường cho đến khi không thể nhấc tay lên nữa, răng cô cắn vào môi đến rướm máu.
Tất nhiên, sau đó ông ta đã từ bỏ nỗ lực tách dì Rachel ra khỏi cồn thuốc phiện, một thứ quỷ ám mà ông ta đã đưa đến với dì. Ta không thể chịu được việc để bà ấy khổ sở thêm nữa, ông ta nói, trước sự hiện diện của bà Ramsay và một hầu gái. Và họ đã tin ông ta, không ai hỏi gì, không hề để tâm rằng chuyện này xảy ra không phải lần đầu tiên, lần thứ hai, hay thậm chí là lần thứ năm.
Vào bữa tối hôm đó, ông ta đã lẩm bẩm, Ít nhất bà ấy không nghiện cocain. Và Elissande, người thậm chí không biết cocain là gì, đã ớn lạnh đến mức phải dành cả đêm hôm đó co mình trước lò sưởi trong phòng ngủ.
Cơ hội thành công: rất nhỏ. Cái giá của thất bại: không hình dung nổi.
Cô đứng lên. Cửa sổ phòng khách có thể nhìn ra cổng dinh thự rất rõ ràng. Lần cuối cùng cô đi qua những cánh cổng kia đã nhiều năm rồi. Lần cuối dì cô tự mình rời khỏi dinh thự này ít nhất phải lâu gấp đôi.
Phổi cô hoạt động vất vả trong bầu không khí đột nhiên loãng ra. Bụng cô rất muốn tống bữa trưa ra ngoài. Cô siết chặt mép khung cửa sổ, choáng váng và đờ đẫn, trong khi quý bà Kingsley phía sau tiếp tục nói về sự lịch sự và thân thiện của những người khác, về việc họ sẽ có một khoảng thời gian tuyệt vời. Sao nhỉ, Elissande thậm chí không cần phải lo lắng đến chuyện chuẩn bị đồ ăn cho họ. Nhà bếp của dinh thự Woodley, nhờ cách xa khỏi ngôi nhà, đã thoát khỏi sự viếng thăm của lũ chuột.
Elissande từ từ quay lại. Và sau đó cô mỉm cười, kiểu cười cô trao cho chú mình khi ông tuyên bố rằng, không, rốt cuộc ông sẽ không đi Nam Phi, khi cuối cùng cô đã tin rằng ông ta sẽ đi thật, sau nhiều tháng chuẩn bị mà cô đã chứng kiến bằng chính đôi mắt của mình.
Quý bà Kingsley nín bặt trước nụ cười này.
“Chúng tôi sẽ rất vui lòng được giúp”, Elissande nói.
Elissande Edgerton đứng trước cửa dinh thự tại Highgate Court. Mưa rơi lộp độp xuống chiếc ô đen của cô; màn sương mù xám lạnh che mờ mọi thứ ngoại trừ lối đi vào nhà.
Tháng Tám, và bầu trời tựa như tháng Mười một.
Cô mỉm cười với người đàH ông trước mặt mình. “Chúc chú một chuyến đi an toàn”.
Edmund Douglas đáp lại nụ cười của cô. Vẻ ngoài tình cảm này là trò chơi của ông ta. Không khóc lóc trong nhà này, cháu hiểu không, Elissande yêu quý của ta? NhìH dì cháu kìa. Bà ấy không đủ mạnh mẽ và thông minh để mỉm cười. Cháu có muốn giống bà ấy không?
Ngay từ khi mới sáu tuổi, Elissande đã biết rằng cô không muốn giống như dì mình, một bóng ma khóc lóc, nhợt nhạt. Cô đã không hiểu vì sao dì cô khóc. Nhưng bất cứ khi nào nước mắt của dì Rachel trào ra, bất cứ khi nào chú cô đặt cánh tay quanh vai vợ và dẫn bà về phòng, Elissande luôn lẩn ra khỏi nhà và chạy đi xa hết mức cô dám, trái tim đập thình thịch vì sợ hãi, nổi loạn và cơn oán giận cháy như đám than âm ỉ.
Vì thế cô đã học mỉm cười.
“Cảm ơn, cháu yêu”, Edmund Douglas nói.
Nhưng ông ta không hề chuyển động để bước vào cỗ xe độc mã đang đợi. Ông ta thích kéo dài giây phút tạm biệt – cô nghi rằng ông ta biết rất rõ cô mong mỏi ông ta đi như thế nào. Cô cười tươi hơn nữa.
“Giúp chú chăm sóc gì cháu trong lúc chú đi vắng nhé”, ông ta nói và ngước mặt lên cửa sổ phòng ngủ vợ mình. “Cháu biết chú quý trọng dì ấy nhiều như thế nào rồi đấy”.
“Tất Hhiên, thưa chú”.
Vẫn mỉm cười, cô nghiêng người hôn vào má ông ta, kiểm soát nỗi ác cảm với sự thành thạo khiến cổ họng cô sít lại.
Ông ta đòi hỏi biểu hiện nồng ấm này trước mặt người làm. Không phải người nào cũHg giỏi ngụy trang sự độc ác của mình đến mức có thể lừa gạt được cả người làm trong nhà. Trong làng người ta đã nghe những tin đồn về Squire Lewis thích véo mông các cô hầu gái, hay bà Stevenson pha nước vào bia dành cho người làm. Nhưng nhậH xét duy nhất lan truyền về ông Douglas là lòng ngưỡng mộ nhất mực về sự kiên nhẫn như thánh của ôHg, nào là vì bà Douglas quá yếu đuối – và hơi có vấn đề về thần kinh.
Cuối cùng ông ta trèo vào xe. Người đánh xe cúi rạp mình trong chiếc áo mưa và giật dây cương. Bánh xe lăn lép nhép trên lối đi trải sỏi. Elissande vẫy cho đến khi cỗ xe vòng qua khúc quanh trên đường: rồi cô hạ tay xuống và đánh rơi nụ cười.
Vere thường ngủ rất ngon trên một con tàu đang chạy. Đã nhiều lần trong đời anh lên Tàu tốc hành Scotland đặc biệt từ London đến Edinburgh chẳng vì lý do gì ngoài tám tiếng đồng hồ ngủ say sưa không mộng mị mà nó mang đến.
Chuyến đi đến Shropshire không mất tới phân nửa thời gian đến Edinburgh và có vài lần đổi tàu. Nhưng anh vẫn thích, có lẽ đó là thời gian anh thấy dễ chịu nhất sau những giấc ngủ trên đường từ London đến Gloucestershire, nơi anh đã ở đó hai tuần trước để lấy lại một bản kế hoạch tấn công bất ngờ mà không hiểu sao Văn phòng Đối ngoại đã ‘để mất’. Một nhiệm vụ nhạy cảm, xét đến mục tiêu của kế hoạch là Tây Nam Châu Phi của Đức và quan hệ với Đức đang ở giai đoạn căng thẳng nhất.
Anh hoàn thành nhiệm vụ mà không gây ra chút sóng gió nào trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, Hiềm vui đến từ thành công này hoàn toàn thầm lặng. Anh đã phải sống một cuộc đời khác để theo đuổi Công lý, chứ không phải để cứu giúp những tên Hgốc không thể bảo vệ những tài liệu nhạy cảm.
Dẫu cho những nhiệm vụ đó vỗ về cơn đói Công lý của anh, thì sự thỏa mãn đó cũng Hgắn ngủi và chóng tàH, như đám than hồng yếu ớt sắp thành tro, theo sau là tình trạng kiệt sức kéo dài trong nhiều tuần. Một cảm giác trống rỗng mà giấc ngủ sâu nhất, thoải mái nhất cũng không thể lấp đầy.
Xe ngựa của quý bà Kingsley cứ đến đón anh lướt qua những dặm đường đồng quê xanh trập trùng. Anh không thể ngủ nữa và cũng không muốn nghĩ về vụ điều tra tiếp theo. Đúng là cuộc sống ẩn dật tuyệt đối của Edmund Douglas đòi hỏi phải tính toán nhiều hơn bình thường, nhưng cuộc điều tra này cũng chỉ là một trong số những điệp vụ nhạy cảm thường gặp trong nghề nghiệp của anh, những vụ mà cảnh sát địa phương không thể giải quyết, và thậm chí thường xuyên không biết đến.
Anh đưa mắt nhìn ra ngoài cỗ xe. Thay vì là đồng cỏ tươi tốt vẫn còn ướt mưa nhưng lấp lánh dưới mặt trời chiếu mới ló dạng, anh nhìn thấy một khung cảnh khác: những con sóng vỗ rì rào, những vách đá cao, hoa thạch nam nở rộ tím cả đồng cỏ một lối đi trên đỉnh dốc trải dài trước mặt; một bàn tay ấm áp vững vàng nắm lấy tay anh.
Anh biết con đường đó. Anh biết những vách đá, những đồng cỏ và bờ biển – bờ biển của Sommerset, phía Bắc Devon và Cornwall là những địa điểm đẹp tuyệt vời mà anh vẫn đến thăm mỗi khi có cơ hội. Tuy nhiên, cô gái nắm lấy tay anh chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng.
Nhưng anh biết tiếng bước chân nhẹ nhàng và uyển chuyển của cô. Anh biết chiếc váy vải cứng của cô: Nó khẽ sột soạt khi cô bước đi, một âm thanh anh chỉ có thể nghe thấy khi không khí thật tĩnh lặng và ở trên cao, cách xa tiếng ầm ào của những con sóng. Và anh biết hình dáng chiếc gáy của cô ẩn bên dưới chiếc mũ rộng vành bảo vệ làn da cô khỏi ánh mặt trời: anh đã khoác áo choàng của anh lên vai cô nhiều lần, khi áo cô không đủ sức chống lại thời tiết lạnh và hay thay đổi ở bờ biển.
Cô là người đi bộ đường dài không biết mỏi mệt, là người bạn chân thành, và người tình ngoan ngoãn ngọt ngào về đêm.
Trí tưởng tượng giống như những tù Hhân, nếu được phép luyện tập hợp lý dưới sự giám sát thì ít có khả năng dấy lên một cuộc nổi loạn. Vì thế anh nghĩ về cô thường xuyên: khi anh không thể ngủ được, khi anh quá mệt mỏi để nghĩ về thứ gì khác, khi anh sợ phải về nhà sau hết tuần này đến tuần khác mong mỏi được yên tĩnh và cô độc. Tất cả những gì cô phải làm là đặt một bàn tay lên cánh tay anh, cái chạm của cô ấm áp chứa đựng sự thông hiểu và quan tâm, và anh sẽ ổn thôi, sự cay độc của anh được xoa dịu, nỗi cô đơn của anh vơi bớt và những cơn ác mộng của anh trôi vào quên lãng.
Anh đủ tỉnh táo để không cho cô một cái tên, hoặc tưởng tượng ra chân dung cô thật chi tiết – theo cách này anh vẫn có thể giả vờ Hhư một ngày nào đó anh sẽ gặp cô, trong một góc kín đáo của phòng khiêu vũ quá đông đúc và sáng lóa. Nhưng anh cũng đủ mơ màng để hình dung ra nụ cười của cô, một nụ cười hoàn hảo và đáng yêu đến mức anh không thể không hạnh phúc trong sự rạng ngời của nó. Cô không mỉm cười nhiều, bởi vì anh thường khôHg hạnh phúc, ngay cả trong tưởng tượng. Nhưng khi cô mỉm cười, cảm xúc trong trái tim anh giống như khi anh lên sáu và lần đầu tiên được chạy vào lòng đại dương,
Tuy nhiên, ngày hôm nay anh không muốn có cảm xúc, mà chỉ cần sự bầu bạn tĩnh lặng. Vì thế họ đi bộ cùng nhau, trên con đường mà anh chỉ đi dạo một mình trong cuộc đời thực. Đến lúc cỗ xe đi qua cổng của dinh thự Woodley, trang viên mà quý bà Kingsley thuê để ở, anh đang đứng bên cạnh cô trong tòa lâu đài đổ nát của Vua Arthur, bàn tay đặt trên tấm lưng thon nhỏ của cô, họ nhìn xuống những quả cầu sủi bọt tung tóe xa xa bên dưới.
Có lẽ anh đã ở lại đó lâu hơn – anh rất giỏi nói tạm biệt và xin chào khi vẫn ở trong trạng thái mơ màng, nếu không phải anh nhìn thấy em trai mình đang vẫy tay trước ngôi nhà.
Hình ảnh đó đột ngột đưa anh trở lại thực tại.
Anh nhảy khỏi xe, vấp chân vào cây ba toong của mình. Freddie đỡ được anh.
“Cẩn thận nào, Penny”.
Vere đã là Tử tước Belgrave từ giây phút anh hít hơi thở đầu tiên. Anh trở thành Hầu tước của Vere ở tuổi mười sáu, sau cái chết của cha mình. Ngoài người mẹ quá cố cùng vài người bạn cũ và Freddie, không ai gọi anh bằng cái têH thân mật này, nó là En viết tắt từ tên thánh Spencer này của anh.
Anh ôm Freddie. “Em đang làm gì ở đây hả ông tướng?”
Vere hiếm khi nghĩ mình đang lao đầu vào nguy hiểm. Những cuộc điều tra của anh không yêu cầu phải dùng vũ khí và chính vỏ bọc công khai hiện tại đã che chở cho anh khỏi những nghi ngờ thái quá. Nhưng Freddie chưa bao giờ ở gần anh trong lúc anh đang làm nhiệm vụ. Freddie là thứ duy nhất đã đi đúng hướng trong cuộc đời Vere. Cậu bé nhút nhát làm Vere phải bận tâm lo lắng đã trưởng thành và là một chàng trai trẻ cao quý ở tuổi hai tám: cao quý nhất trong số những người quen của Vere. Người cao quý nhất trong số những người quen của bất kỳ ai, anh nghĩ với niềm tự hào ngớ ngẩn.
Hai tuần ở đồng quê đã nhuộm đỏ làn da sáng của Freddie và tẩy những lọn tóc hung hung sang màu sáng hơn. Anh nhặt cây ba toong Vere làm rơi và kín đáo chỉnh thẳng chiếc ca-vát luôH để nghiêng ba mươi độ của Vere.
“Kingsley hỏi em có muốn đến thăm dì cậu ấy không. Em nói có, khi cậu ấy nói anh cũng được mời”.
“Anh không biết là gia đình Wrenworth mời Kingsley đến nhà họ”.
“À, em không ở nhà Wrenworth. Em rời khỏi nhà họ thứ Năm vừa rồi và đi đến nhà Beauchamp”.
Và Freddie nên ở lại đó. Cho dù phạm vi công việc của anh không gây tổn hại về thân thể, anh vẫn thấy an tâm hơH nếu Freddie không đến.
“Em vẫn thích ở nhà Wrenworth mà. Sao lần này em rời đi sớm thế?”
“Ồ, em không biết”. Freddie kéo ống tay áo của Vere xuống, nó hiếm khi không cuộn lên ở những vị trí bất định. “Em muốn đến một nơi khác”.
Điều này làm Vere khựng lại. Bồn chồn không phải một điểm anh thường thấy ở Freddie, trừ phi Freddie đang bất an về chuyện gì đó.
Một tiếng thét như tiếng thét của một trinh nữ đang đối diện với hàm răng rồng phá vỡ không gian tĩnh lặng của miền quê.
“Chúa lòng thành, chuyện gì thế?” Vere thốt lên với giọng Hgạc nhiên rất đáng tin.
Câu hỏi được trả lời bởi rất nhiều tiếng la hét khác. Cô Kingsley, cháu gái của quý bà Kingsley vừa lao ra khỏi nhà vừa gào thét thất thanh. Và đâm sầm vào Vere – anh có một tài năHg cực kỳ lớn là ngáng đường của người khác.
Anh bắt lấy cô. “Có chuyện gì thế, cô Kingsley?”
Cô Kingsley vùng vẫy trong tay anh. Cô dừng la hét trong giây lát nhưng chỉ để hít một hơi không khí. Và rồi cô há miệng và thốt ra một tiếng hét kinh hoàng nhất mà Vere từng nghe.
“Tát cô ấy đi”, anh cầu viện Freddie.
Freddie thất kinh. “Em không thể tát một phụ nữ!”
Thế là Vere phải làm. Cô Kingsley im bặt và lả người đi. Cô thở hổn hển và chớp mắt, rồi đờ đẫn nhìn Vere.
“Cô Kingsley, cô có ổn không?” Freddie hỏi.
“Tôi… tôi… Lạy Chúa, chuột, lũ chuột…”
Cô bắt đầu nức nở.
“Giữ cô ấy”. Vere dúi cô vào vòng tay tử tế và biết thương xót hơn của Freddie.
Anh chạy vào Hhà và dừng khựng lại ở giữa hành lang. Một hoặc hai tá chuột, anh đã nói với Holbrook như thế. Nhưng phải có đến hàng trăm con, đang chạy như nước suối lan khắp tường và cầu thang, leo lên lan can và chạy dọc xuống những tấm rèm, xô đổ bình hoa sứ với một tiếng rầm to đến mức ngay cả Vere đang đứng chết sững cũng phải nhảy lên và bàng hoàng trước cảnh tượng này.
“Tránh đường!”
Kingsley, cháu trai của quý bà Kingsley chạy ra, một khẩu súng lăm lăm trong tay. Ngay lúc cậu ta chạy đến giữa đại sảHh, một con chuột nhỏ nhảy xuống từ chùm đèn.
“Kingsley, phía trên cậu!” Vere hét lên.
Quá muộn. CoH chuột hạ cánh ngay đầu Kingsley. Cậu ta hét lên. Vere quăng mình xuống sàn nhà khi khẩu súng của Kingsley phát nổ.
Kingsley lại thét lên. “Mẹ kiếp, nó ở trong áo khoác của tôi!”
“Tôi sẽ không đến gần cậu nếu cậu không bỏ khẩu súng xuống trước! Và đừng ném nó, nó có thể nổ nữa đó”.
“Á!” Khẩu súng của Kingsley nặng nề rơi bịch xuống. “Giúp tôi với!”
Cậu ta giật đùHg đùng như con rối của người điên. Vere lao đến và xé toạc chiếc áo khoác ban ngày của Kingsley.
“Tôi Hghĩ nó ở trong áo gi-lê. Chúa toàn năng, đừng để nó chui vào quần của con”.
Vere xé một phần áo gi-lê của Kingsley. Và con súc vật nhỏ ở đó, mắc dưới dây đeo quần. Vere túm đuôi và vứt nó sang một bên trước khi nó có thể vặn người lại và cắn anh.
Kingsley chạy phắt ra khỏi cửa trước trong chiếc áo sơ mi. Vere lắc đầu. Nhiều tiếng gào thét khác đến từ một căn phòHg bên trái anh. Anh vội vã đi đến và mở cửa – và ngay lập tức phải túm lấy mép cửa trên và đu người lên khỏi sàn nhà khi đàn chuột chạy ào ra.
Quý bà Kingsley, ba quý cô trẻ, hai quý ông, cộng thêm một người hầu đang cố gắng đứng trên đồ đạc phía trên một biển chuột, hai trong ba quý cô đang gào thét, anh Conrad tham gia cùng họ với sự hào hứng và âm lượng tương đương. Quý bà Kingsley, đứng trên cây đàn pianô, dùng giá nhạc để đập bất kỳ con chuột nào dám trèo lên ốc đảo an toàn của cô. Tên người hầu đang bảo vệ các quý cô bằHg cây cời lửa trong tay.
Khi lũ chuột rút khỏi phòng khách, Vere giúp những vị khách bị bao vây của quý bà Kingsley an toàn bước xuống sàn nhà. Cô Beauchamp run rẩy nhiều đến mức anh phải bế ra ngoài.
Anh thấy quý bà Kingsley chống một tay vào tường, bàn tay khác ôm lấy bụng, cằm cô bạnh ra.
“Cô ổn chứ?”
“Tôi không nghĩ mình cần cố gắng tỏ ra ốm yếu khi đến gặp cô Edgerton”, cô nói, giọng cô chỉ cao hơH tiếng thì thầm một chút. “Holbrook là gã chết bầm”.
“Ở vị trí cao nhất của cao nguyên là một nhà thờ Hhỏ của Santa Maria del Soccorso, ở đó có một ẩn sĩ cất giữ một quyển sách ghi tên khách viếng thăm, và bán rượu. Tầm nhìn từ mũi đất này hấp dẫn và hùng vĩ đến kỳ lạ, Hhững vách đá cheo leo thẳng đứng, và đường bờ biển xinh đẹp theo mọi hướng nhìn…”
Elissande nhìn thấy nó thật rõ ràng: Đảo Capri, hiện lên như thiên đường trên Địa Trung Hải. Cô đang đi bộ men theo những vách đá sừng sững, mái tóc tung bay trong gió, tay cô cầm một bó cẩm chướng dại. Không có âm thanh nào ngoài tiếng sóng và chim mòng biển, không có ai ngoài những người dân chài đang vá lưới xa xa ở bên dưới, và không có cảm giác nào ngoài cảm giác trong lành và thanh bình của sự tự so tuyệt đối và thuần túy.
Cô chỉ vừa kịp đỡ được dì cô khi bà ngã khỏi chiếc ghế trong nhà vệ sinh.
Đã hơn bốn tám tiếng đồng hồ kể từ khi dì Rachel đi vệ sinh lần cuối, ảnh hưởng của chứng liệt người. Elissande đã dỗ dành dì Rachel ngồi dậy trong khoảng mười lăm phút sau bữa trưa, trong lúc cô đọc to một đoạn trong cuốn sách hướng dẫn du lịch đến miền Nam nước Ý để giết thời gian. Nhưng nhờ vào cách đọc ít hấp dẫn của cô hoặc nhờ vào cồn thuốc phiện mà cô vẫn không thể tước bỏ của dì cô, dì Rachel đã thiu thiu ngủ và cái chậu bên dưới vẫn trống không một cách đáng lo.
Cô nửa kéo, nửa vác dì Rachel ra khỏi nhà vệ sinh. Người phụ nữ lớn tuổi trong vòng tay cô nặng hơn một bó củi một chút, với sức sống và sự linh hoạt cũng bằng khoảng đó. Một trong những tài năng của chú cô là phát hiện ra những người phụ thuộc mình không thích điều gì và đổ chúng lên đầu họ. Vì lý do đó mà váy ngủ của dì Rachel nồng nặc mùi đinh hương, mùi mà dì không thích.
Mùi mà dì đã không thích. Trong nhiều năm nay, dì Rachel gần như luôn ở trong trạng thái mơ màng của cồn thuốc phiện và ít nhận biết mọi thứ, miễn là bà uống thuốc đúng giờ. Nhưng Elissande vẫn quan tâm, cô mang cho bà chiếc váy ngủ không mùi lấy từ phòng mình.
Cô nhẹ nhàng đặt người dì lơ mơ ngủ xuống giường, rửa tay, rồi thay váy ngủ cho bà, và đảm bảo chắc chắn rằng dì Rachel nằm đúng bên. Cô cẩn thận ghi lại số giờ dì Rachel nằm mỗi bên: Chứng bệnh thối loét do nằm giường rất dễ xảy ra với những người nằm trên giường quá nhiều.
Cô dém chăn quanh vai dì Rachel và nhặt cuốn sách du lịch bị rơi xuống sàn trong lúc vội vã đỡ bà. Cô đã để mất dấu chỗ đang đọc. Nhưng điều đó không quan trọng. Khi đọc về thành phố Manfredonia [1] trên bờ biển Adriatic, được một anh hùng phát hiện trong Cuộc chiến thành Troy, cô cũng cảm thấy hạnh phúc như thế.
[1] Một thành phố thuộc tỉnh Foggia trong vùng des Puglia của Ý.
Cuốn sách bay khỏi tay cô, đập sầm vào bức tranh treo trên tường đối diện giường – bức tranh mà Elissande cố hết sức không bao giờ nhìn nó – và rớt bịch xuống sàn. Bàn tay cô bụm lấy miệng. Cô ngoái đầu về phía dì Rachel. Nhưng dì Rachel gần như không động đậy.
Elissande nhanh chóng nhặt cuốn sách lên và kiểm tra. Tất nhiên là có tổn thất: Trang sách cuối cùng đã rời khỏi bìa sau.
Cô khép cuốn sách lại và siết chặt nó. Ba ngày trước cô đã cầm lược chải đầu đập mạnh vào chiếc gương cầm tay. Hai tuần trước đó cô đã ngây người nhìn một hộp thuốc diệt chuột asen trắng mà cô tìm thấy trong tủ để chổi.
Cô sợ rằng cô đang từ từ đánh mất sự tỉnh táo.
Cô đã không muốn trở thành bảo mẫu của dì mình. Cô đã định bỏ đi ngay khi cô đủ tuổi để tìm kiếm một công việc ở nơi nào đó, bất cứ nơi nào khác.
Nhưng chú cô biết điều đó. Ông ta đưa những y tá đến, để cô thấy dì Rachel co rúm lại và gào khóc vì những phương pháp chữa trị ‘y học’ điên khùng của họ, để cô buộc phải bước vào, để lòng trung thành và biết ơn, và những điều tốt đẹp khác biến thành những xiềng xích liểng xiểng, xấu xí trói cô vào ngôi nhà này, vào sự khống chế của ông ta.
Cho đến khi tất cả lối thoát cô còn lại là vài cuốn sách. Cho đến khi ngày của cô quay vòng quanh sự đều đặn hay sự bất thường của dì cô. Cho đến khi cô quăng cuốn sách quý giá hướng dẫn đến miền Nam nước Ý vào một bức tường, bởi vì sự kiểm soát vượt khỏi tầm tay cô, thứ duy nhất cô có thể nương tựa, đang bị xói mòn dưới sức nặng của sự cầm tù.
Tiếng xe ngựa trên lối đi khiến cô túm lấy váy và chạy ào ra khỏi phòng dì Rachel. Chú cô thích thông báo sai ngày về cho cô: Trở về sớm để cắt ngắn sự ân xá nhờ sự vắng mặt của ông ta; về muộn hơn để đập tan hy vọng rằng có lẽ ông ta đã gặp được kết thúc xứng đáng nhất trong lúc đi xa. Và ông ta đã làm điều này trước đây: nói là đi xa mà thực ra chỉ là chạy xe quanh vùng rồi trở về nhà sau vài giờ, tuyên bố rằng ông ta đã thay đổi ý định bởi vì quá nhớ gia đình.
Cô vội vã đút cuốn sách hướng dẫn du lịch vào ngăn kéo để đồ lót trong phòng mình. Ba năm trước chú cô đã thanh lọc tất cả những quyển sách viết bằng tiếng Anh, ngoại trừ Kinh thánh và một tá cuốn sách tập hợp những bài thuyết giảng về dấu hiệu thịnh nộ của Chúa. Từ khi tìm thấy một vài cuốn sách ngẫu nhiên thoát khỏi sự thanh trừng này, cô đã canh giữ chúng với sự thận trọng sợ hãi của một con chim mẹ xây tổ giữa một bầy mèo.
Sau khi giấu kín cuốn sách, cô đến cửa sổ gần nhất nhìn ra lối đi. Lạ lùng thay, đỗ trước nhà không phải cỗ xe ngựa độc mã của chú cô mà là một cỗ xe ngựa bốn bánh mui trần với hàng ghế bọc đệm màu xanh ngọc.
Một tiếng gõ cửa nhẹ vang lên. Cô quay lại. Bà Ramsay, quản gia của Highgate Court đứng ở ngưỡng cửa. “Thưa cô, có quý bà Kingsley đến chơi”.
Các điền chủ và cha xứ địa phương thỉnh thoảng vẫn viếng thăm chú cô. Nhưng hầu như chưa bao giờ có phụ nữ đến thăm Highgate Court, vì dì cô nổi tiếng trong vùng là có sức khỏe đặc biệt mong manh và Elissande cũng nổi tiếng tương đương – nhờ vào những bình luận công khai có chiến lược của chú cô – là không thể rời giường bệnh của dì.
“Ai là quý bà Kingsley?”
“Bà ấy ở dinh thự Woodley, thưa cô”.
Elissande mang máng nhớ lại rằng dinh thự Woodley, cách Highgate Court hai dặm về phía tây bắc, đã được cho thuê một thời gian trước. Thế thì quý bà Kingsley là hàng xóm mới của họ. Nhưng không phải là một người hàng xóm mới sẽ gửi danh thiếp trước rồi mới đích thân đến thăm hay sao?
“Bà ấy nói có tình huống khẩn cấp ở dinh thự Woodley và mong cô đón tiếp bà ấy”, bà Ramsay nói.
Vậy thì quý bà Kingsley đích thực đã tìm sai người rồi. Nếu Elissande có thể làm gì cho bất kỳ ai, cô đã bỏ trốn với dì cô nhiều năm trước. Hơn nữa, chú cô sẽ không muốn cô tiếp khách mà không có sự đồng ý của ông ta.
“Nói với bà ấy là tôi đang bận chăm sóc dì của tôi”.
“Nhưng thưa cô, quý bà Kingsley đang quẫn trí”.
Bà Ramsay là một phụ nữ đúng đắn, trong suốt mười lăm năm làm việc ở Highgate Court, bà không hề chú ý là cả hai người phụ nữ trong nhà cũng khá quẫn trí – chú cô có biệt tài thuê được những người làm nhất định không chịu ngó nghiêng xung quanh. Thay vì ngẩng cao đầu và cư xử với một chút nghiêm trang, có lẽ đôi khi Elissande cũng nên bị cuốn hút trước những chuyện tầm phào.
Cô hít một hơi thở sâu. “Trong trường hợp đó, bà có thể đưa bà ấy vào phòng khách”.
Cô không có thói quen lánh xa những người phụ nữ quẫn trí.
Quý bà Kingsley gần như cuống hết cả lên khi thuật lại câu chuyện thảm họa chuột mang hơi hướm Kinh thánh. Sau khi kể xong, cô ấy cần đến cả một tách trà đen nóng trước khi màu xanh nhợt nhạt trên má tan dần.
“Tôi rất tiếc khi nghe khó khăn của cô”, Elissande nói.
“Tôi không nghĩ cô đã nghe đến phần tệ nhất”, quý bà Kingsley trả lời. “Cháu trai và cháu gái tôi đã đến chơi và mang theo bảy người bạn. Bây giờ tất cả chúng tôi không có lấy một chỗ để ở. Điền chủ Lewis đã có đến hai lăm người khách. Và nhà trọ trong làng thì chật kín, hình như sẽ có một đám cưới trong hai ngày nữa”.
Nói cách khác, cô ấy muốn Elissande đón tiếp chín – không, mười người lạ. Elissande kìm nén một tràng cười kích động. Yêu cầu như thế đối với bất kỳ người hàng xóm nào mới chỉ quen biết là quá nhiều. Và quý bà Kingsley không biết tí gì về việc cô ấy đang yêu cầu người hàng xóm cá biệt này nhiều như thế nào.
“Ngôi nhà của cô sẽ không sử dụng được trong bao lâu, quý bà Kingsley?” Đây có vẻ là một câu hỏi lịch sự.
“Tôi hy vọng nó sẽ ở được trong ba ngày nữa”.
Chú cô dự định sẽ đi vắng ba ngày.
“Tôi quả thực rất ngại khi nghĩ đến chuyện đặt vấn đề trực tiếp với cô như thế này, cô Edgerton, nhưng chúng tôi đã hết cách rồi”, quý bà Kingsley nói hết sức chân thành. “Tôi đã nghe rất nhiều về sự tận tụy đáng ngưỡng mộ của cô với bà Douglas. Nhưng chắc chắn là cô phải có những lúc cô đơn khi không có sự bầu bạn của bạn bè cùng trang lứa – và tôi đang có bốn quý cô trẻ thân thiện và năm quý ông trẻ đẹp trai.”
Elissande không cần bạn đồng trang lứa, cô cần tiền. Cô có rất nhiều con đường rộng mở cho chính mình – cô có thể trở thành một cô giáo, một người đánh máy, hay một người bán hàng. Cô cần một khoản tiền sẵn sàng để có thể thuê nhà và chăm sóc một người bệnh khi có bất kỳ cơ hội trốn thoát nào thành công. Sao quý bà Kingsley không đề nghị cô một trăm bảng thay vào đó nhỉ?
“Năm quý ông đẹp trẻ đẹp trai, chưa kết hôn”.
Khao khát được cười thật to một cách kích động quay lại. Một người chồng. Quý bà Kingsley nghĩ Elissande muốn lấy chồng, khi mà hôn nhân lại là tai họa trong cuộc đời của dì Rachel.
Chưa bao giờ có một người đàn ông hiện diện trong tất cả những giấc mơ về tự do của cô; luôn luôn chỉ có mình cô, trong sự cô đơn tuyệt vời, hoàn toàn một mình cô.
“Và tôi chắc là chưa nhắc đến”, quý bà Kingsley tiếp tục, “rằng một trong những anh chàng trẻ ở chỗ tôi, thực ra, anh chàng đẹp trai nhất cũng ngẫu nhiên là một hầu tước?”
Trái tim Elissande đột nhiên đập thình thịch. Cô không quan tâm đến chuyện đẹp trai – chú cô là một người rất đẹp trai. Nhưng hầu tước là một người quan trọng, có quyền lực và những mối quan hệ. Một hầu tước có thể bảo vệ cô – trước chú cô.
Giả sử rằng anh ta kết hôn với Elissande trong vòng ba ngày – hoặc là một khoảng thời gian ngắn trước khi chú cô trở về.
Rất có thể, phải không? Rồi khi cô đón tiếp mười vị khách chú cô đã không mời, một hành động nổi loạn hiển nhiên cô chưa bao giờ dám làm như thế và bắt đầu thực hiện mục tiêu của mình sau đó thì sao?
Sáu tháng trước, vào ngày giỗ của Christabel, ông ta đã cất cồn thuốc phiện của dì Rachel. Trong ba ngày dì Rachel đã chịu đựng như một người buộc phải trải qua một cuộc phẫu thuật mà không có thuốc gây mê. Elissande, bị cấm đến gần dì Rachel, đã đấm vào chiếc gối trên giường cho đến khi không thể nhấc tay lên nữa, răng cô cắn vào môi đến rướm máu.
Tất nhiên, sau đó ông ta đã từ bỏ nỗ lực tách dì Rachel ra khỏi cồn thuốc phiện, một thứ quỷ ám mà ông ta đã đưa đến với dì. Ta không thể chịu được việc để bà ấy khổ sở thêm nữa, ông ta nói, trước sự hiện diện của bà Ramsay và một hầu gái. Và họ đã tin ông ta, không ai hỏi gì, không hề để tâm rằng chuyện này xảy ra không phải lần đầu tiên, lần thứ hai, hay thậm chí là lần thứ năm.
Vào bữa tối hôm đó, ông ta đã lẩm bẩm, Ít nhất bà ấy không nghiện cocain. Và Elissande, người thậm chí không biết cocain là gì, đã ớn lạnh đến mức phải dành cả đêm hôm đó co mình trước lò sưởi trong phòng ngủ.
Cơ hội thành công: rất nhỏ. Cái giá của thất bại: không hình dung nổi.
Cô đứng lên. Cửa sổ phòng khách có thể nhìn ra cổng dinh thự rất rõ ràng. Lần cuối cùng cô đi qua những cánh cổng kia đã nhiều năm rồi. Lần cuối dì cô tự mình rời khỏi dinh thự này ít nhất phải lâu gấp đôi.
Phổi cô hoạt động vất vả trong bầu không khí đột nhiên loãng ra. Bụng cô rất muốn tống bữa trưa ra ngoài. Cô siết chặt mép khung cửa sổ, choáng váng và đờ đẫn, trong khi quý bà Kingsley phía sau tiếp tục nói về sự lịch sự và thân thiện của những người khác, về việc họ sẽ có một khoảng thời gian tuyệt vời. Sao nhỉ, Elissande thậm chí không cần phải lo lắng đến chuyện chuẩn bị đồ ăn cho họ. Nhà bếp của dinh thự Woodley, nhờ cách xa khỏi ngôi nhà, đã thoát khỏi sự viếng thăm của lũ chuột.
Elissande từ từ quay lại. Và sau đó cô mỉm cười, kiểu cười cô trao cho chú mình khi ông tuyên bố rằng, không, rốt cuộc ông sẽ không đi Nam Phi, khi cuối cùng cô đã tin rằng ông ta sẽ đi thật, sau nhiều tháng chuẩn bị mà cô đã chứng kiến bằng chính đôi mắt của mình.
Quý bà Kingsley nín bặt trước nụ cười này.
“Chúng tôi sẽ rất vui lòng được giúp”, Elissande nói.