Chương : 20
“Ngài Vere có thể xử lý mọi chuyện không?” Dì Rachel hỏi khi đoàn tàu chuyển bánh trong tiếng còi và hơi nước.
Vere vẫn ở lại sân ga, quan sát họ rời đi. Vẫn trong bộ dạng người đánh xe, anh đã đưa Elissande và dì Rachel đến ga tàu, để họ có thể bỏ Exeter và những thử thách lại sau lưng. Bà Douglas hồi phục ở nhà tốt hơn là ở một đồn cảnh sát, anh đã nói.
Nhưng đó là nhà của anh, đâu phải nhà họ?
“Anh ấy sẽ làm tốt thôi”, Elissande nói.
Anh lùi xa dần, xa dần, sự vắng mặt của anh bỗng biến thành một lỗ hổng sắc nhọn trong cô. Cuối cùng nhà ga chỉ còn là một chấm sáng trong bóng đêm và anh biến mất khỏi tầm nhìn của cô.
“Mẹ nghĩ rằng... mẹ nghĩ rằng con sẽ muốn biết mọi chuyện”, dì cô nói.
Không, không phải dì cô, mà là mẹ cô. Elissande chuyển ánh mắt sang khuôn mặt thân quen đó, đã bớt hốc hác hơn trước nhưng vẫn già hơn nhiều so với tuổi, và cảm thấy một nỗi buồn ghê gớm.
“Chỉ khi nào mẹ cảm thấy đủ khỏe để nói chuyện”.
Cô không biết cô có đủ khỏe để nghe hay không.
“Mẹ nghĩ có thể”, dì Rachel nói với một nụ cười yếu ớt. “Nhưng mẹ không biết bắt đầu từ đâu”.
Elissande nhớ lại những gì chồng cô đã thuật lại chi tiết trước đây. Để giữ mình không run rẩy là cả một nỗ lực. “Con đã biết được rằng chú con, cha con, đã vẽ mẹ như một thiên thần tốt, nhân hậu rất lâu trước khi hai người kết hôn. Mẹ không biết ông ta là ai sao?”
“Ông ta nói lần đầu tiên nhìn thấy mẹ ở Brighton, West Pier, và bị mẹ thu hút đến mức ông ta mua chuộc chủ cửa hàng ảnh mà gia đình mẹ đã chụp ảnh để có địa chỉ mà nhà mẹ đã viết lại để gửi ảnh đến, và cũng để mua một bức ảnh của mẹ. Mẹ chưa bao giờ gặp ông ta trước khi ông ta đến gặp mẹ. Ông ta tuyên bố là quen người cha cố của mẹ và mẹ không hề nghi ngờ ông ta. Mẹ đang ở trong hoàn cảnh sa sút và Charlotte đã bỏ nhà đi, mọi người nói dối để không phải tiếp đón mẹ nữa. Mẹ không nghĩ rằng có người nào lại nói dối để được gần mẹ.”
Trái tim Elissande tê tái: người mẹ cả tin, dịu dàng của cô, đơn độc trong thế giới và hoàn cảnh dễ bị tấn công bởi một con quái vật như Douglas.
“Mẹ biết sự thật khi nào?”
“Không lâu trước khi con sinh ra. Mẹ thấy cuốn nhật ký cũ của ông ta khi mẹ tìm một thứ khác, mẹ không nhớ là thứ gì. Nếu mẹ biết cuốn nhật ký thuộc về ông ta, mẹ sẽ không mở ra. Nhưng chữ viết tắt G.F.C. khắc trên bìa làm mẹ tò mò.”
Bà Douglas thở dài. “Mẹ quá ngây thơ, quá ngu ngốc, và hoàn toàn mãn nguyện với người chồng giàu có, thông minh và đẹp trai, ngay cả sự ghen tuông của ông ta mẹ cũng nghĩ là lãng mạn. Khi mẹ nhận ra rằng chữ viết của George Fairborn Carruthers và vài sự kiện trong cuộc đời người lạ này trùng khớp với những gì Edmund đã kể lại về cuộc đời mình, trong số tất cả mọi người, mẹ lại hỏi ông ta về chuyện đó.
Ông ta hẳn đã sợ hãi. Ông ta có thể lừa gạt mẹ với vài câu chuyện bịa đặt, nhưng ông ta kể cho mẹ những điều kinh khủng. Đó là lần đầu tiên mẹ nhìn thấy bản chất thực sự của ông ta, lần đầu tiên mẹ sợ hãi ông ta”.
Đó là lý do bà đã quá hãi hùng vì tin tức Stephen Delaney bị ám sát, Elissande nhận ra: Douglas hẳn đã thề với bà rằng ông ta sẽ không bao giờ cướp đoạt mạng sống của người khác nữa.
“Khi con được một tháng tuổi, chị họ con được một trung sĩ của Quân đội Cứu tế đưa đến cửa nhà chúng ta. Mẹ mất liên lạc với Charlotte nhiều năm. Mẹ không biết rằng chị ấy đã chết trong khi sinh hay là chồng chị ấy đã chết. Vị trung sĩ đó nói rằng chị ấy cố gắng đưa đứa trẻ về cho nhà Edgerton, nhưng họ từ chối thẳng thừng. Mẹ hãi hùng với việc nhận thêm một đứa trẻ khác vào nhà mình, dưới sự kiểm soát của chồng mẹ, nhưng mẹ không thể làm gì khác.
Con bé thật đáng yêu. Nó chỉ lớn hơn con một tuần tuổi và hai đứa con có thể dễ dàng bị nhầm là chị em sinh đôi. Nhưng chưa đến mười ngày sau khi con bé đến sống với chúng ta, cả hai đứa đều bị sốt. Con bé dường như khỏe hơn, trong khi mẹ đang lo sợ cho cuộc sống của con. Sự mừng rỡ mẹ cảm thấy khi cơn sốt của con bớt đi… con không thể tưởng tượng được đâu. Nhưng chỉ vài tiếng đồng hồ sau, vào giữa đêm, chị họ con chết trong tay mẹ. Trước cơn sốc đó, mẹ không thể ngừng khóc. Mẹ nghĩ chắc chắn con bé sẽ không chết nếu nó ở với nhà Edgerton. Mẹ sợ rằng nhà Edgerton đã nhận ra sai lầm và sáng mai sẽ đến để nhận lại con bé. Lúc đó mẹ sẽ nói gì với họ?
Sau đó mẹ nghĩ ra. Chú con… cha con đã đi làm việc ở Antwerp, và cô vú nuôi đã bị sa thải vì bà quản gia đã bắt gặp cô ta với một người hầu. Nếu mẹ tuyên bố con đã chết thay vì chị họ con, không ai biết được. Rồi khi nhà Edgerton đến, con có thể đi với họ và sống cuộc sống không có cha con, điều mà mẹ không thể làm. Khi mẹ đã quyết định, mẹ gửi thư báo tử cho mọi người mẹ biết, đó là trước khi cha con chuyển chúng ta về nông thôn, và mẹ vẫn có vài người bạn. Việc đó khiến cho cái chết của con được chính thức hóa. Không ai nghi ngờ rằng một người mẹ lại không nhận ra chính đứa con của mình”.
Bà chấm khăn tay lên khóe mắt. “Mẹ phải nói rằng nhà Edgerton làm mẹ thất vọng ghê gớm. Mẹ gửi cho họ rất nhiều thư. Mẹ gửi những tấm ảnh của con. Họ chưa bao giờ hồi đáp”.
Elissande cũng phải lau mắt mình. “Được rồi mà. Mẹ đã làm điều tốt nhất”.
“Không phải. Mẹ là một người mẹ tồi tệ, một gánh nặng vô dụng đối với con”.
Elissande lắc đầu. “Làm ơn đừng nói thế. Chúng ta đều biết rằng ông ta là loại người nào. Ông ta sẽ giết mẹ nếu mẹ cố gắng bỏ đi”.
“Mẹ nên giúp con bỏ đi. Ông ta không nhất thiết phải có quyền thống trị cả hai chúng ta”.
Elissande vươn tay qua không gian hẹp giữa hai chiếc ghế và chạm vào má mẹ mình. “Con không hoàn toàn là một tù nhân: Con có Capri. Con luôn luôn tưởng tượng mình ở đó, cách xa khỏi ông ta”.
“Mẹ cũng thế”, bà Douglas nói, nhét chiếc khăn vào cổ tay áo.
Elissande kinh ngạc. “Mẹ cũng tưởng tượng mình ở Capri?”
“Không, mẹ tưởng tượng con ở đó. Mẹ rất thích một đoạn con thường đọc cho mẹ nghe.
Mẹ vẫn còn nhớ vài câu: ‘Như Venice, Capri là một điểm đến thường xuyên trong hành trình của du khách, tách biệt với miền đất liền Ý về đặc điểm tự nhiên và xã hội’”, bà Douglas nhắc lại, mắt bà đăm chiêu, “‘một vùng quê tươi sáng, đầy gió biển, với những tiếng thì thầm sâu thẳm của quá khứ rì rào như những con sóng trong hang động’.
Mẹ hình dung con khám phá những hang động đó, mẹ đã đọc về sự khai phá Hang Động Xanh khi mẹ còn là con gái, nó có vẻ rất thú vị. Khi con đã khám phá đầy đủ về những hang động, con sẽ ăn tối trong một trang trại và ăn những thức ăn thôn quê ngon lành làm từ thảo dược và ô liu. Và khi buổi chiều đến, con sẽ trở lại ngôi nhà trên vách đá cao và quan sát mặt trời lặn xuống trên Địa Trung Hải”.
Nước mắt lại dâng lên trong mắt Elissande. “Con không tin rằng con từng nghĩ đến chuyện sẽ ăn gì hay sống ở đâu ở Capri”.
“Cũng không sao. Nhưng mẹ là mẹ con. Khi mẹ nghĩ đến chuyện con ở xa, mẹ muốn nghĩ rằng con được ăn uống đầy đủ và nghỉ ngơi an toàn”.
Nhưng mẹ là mẹ con. Những từ ngữ này vừa gây bối rối vừa đẹp đẽ như lần đầu tiên nhìn thấy những vì sao.
“Và mẹ tưởng tượng có một đường đi dễ dàng từ ngôi nhà của con đến trung tâm hòn đảo và những khách sạn mà tất cả du khách người Anh tụ họp. Để khi buồn hoặc cô đơn, con có thể đi đến đó uống trà hoặc ăn tối. Và có lẽ một chàng trai trẻ tốt bụng có thể ghé chơi với con”.
Bà Douglas ngập ngừng mỉm cười. “Mẹ tưởng tượng cả một cuộc sống đầy đủ cho con, ở một nơi mẹ chưa bao giờ nhìn thấy”.
Elissande luôn biết rằng người đàn bà trước mặt cô yêu cô, nhưng cô chưa bao giờ biết tình yêu đó nhiều đến như thế nào. “Một cuộc sống thật tuyệt vời”, cô nghẹn lời.
“Gần tuyệt vời như cuộc đời của con với ngài Vere”. Bà Douglas nắm tay cô. “Con là một người may mắn, Ellie ạ”.
Cuộc hôn nhân của cô là một điều đáng xấu hổ, chồng cô sẵn sàng trả một số tiền lớn để không bao giờ phải nhìn thấy cô nữa. Và người đàn ông cô khinh miệt nhất lại hóa thành cha cô, cô vẫn còn quá tê liệt để hiểu được cơn biến động này. Nhưng bà Douglas không sai. Elissande là người may mắn: Cô vẫn có mẹ, an toàn và khỏe mạnh.
Cô nghiêng người về phía trước và hôn lên trán mẹ. “Vâng, và con biết rất rõ điều đó”.
Vere dõi mắt theo con tàu mang vợ anh biến mất trong đêm tối.
Anh nghĩ anh đã biết tường tận mọi điều quanh co ngoắt ngoéo về trường hợp của Douglas. Nhưng những khám phá tối nay vẫn làm anh rúng động tâm can.
Cô có rối loạn không? Cô có chối bỏ không? Thậm chí là cô có hiểu được mọi chuyện đã xảy ra hay không?
Thay vì cho phép mình bị cuốn hút bởi những bí mật chưa được tiết lộ, anh nên cảm thấy tai họa sắp xảy đến. Anh nên sử dụng thuốc mê nhanh hơn. Nếu anh hành động sớm hơn một phút, anh có thể bảo vệ được niềm vui sướng vì không biết sự thật của cô.
Cô đã cực kỳ vui vẻ - thế giới ảm đạm, xấu xa này thật mới mẻ và xinh đẹp trong mắt cô. Một lần ở bữa tối, cô đã kể lại sự kinh ngạc của dì cô trong chuyến đi Dartmouth. Và anh suýt nữa đã bình luận về sự kinh ngạc anh nhìn thấy trên khuôn mặt cô mỗi ngày, cô tìm thấy niềm vui không thể tin được từ những thứ nhỏ nhặt nhất.
Cuối cùng, anh đã không nói gì. Niềm vui của cô làm anh bất an: Nó là một ngọn lửa, một ngọn lửa nguy hiểm mà anh sợ rằng nó sẽ thiêu cháy anh nếu anh ngu ngốc lao vào nó. Cho đến lúc này anh không biết rằng anh đã nghĩ nó đẹp đẽ đến mức nào. Anh đã trân trọng nó ra sao.
Anh đã không dám nhận lấy niềm hạnh phúc như thế cho mình, anh không xứng đáng, nhưng anh muốn cô có được nó. Niềm vui của cô là niềm vui tinh khiết phải khó khăn lắm mới có được. Và anh cảm thấy nó tan vỡ bên trong anh, những mảnh vỡ của nỗi đau đâm thủng mọi hơi thở của anh.
Khi anh trở lại ngôi nhà Douglas đã chọn để thực hiện kế hoạch của mình, Holbrook, cũng ăn mặc như một người đánh xe, đang đứng gác dưới ánh đèn đường hiu hắt.
“Người của chúng ta đã đến rồi”, anh ta nói thay cho lời chào.
Vere gật đầu. “Tôi sẽ thay quần áo và chúng ta sẽ mang hắn đi”.
Anh thay quần áo ở trong nhà. Sau đó cùng Holbrook mang Douglas, vẫn còn bị trói chặt, vào cỗ xe hai bánh của Holbrook. Holbrook leo lên ghế đánh xe; Vere trèo vào trong xe và ngồi cạnh Douglas.
“Vậy là, cậu là con rể của ta”, Douglas nói.
Vere cảm thấy sởn gai ốc khi người đàn ông này mở miệng nói. “Hả?” anh nói. “Không, không, tôi kết hôn với cháu gái của vợ ông”.
“Cậu không hiểu những gì đã nghe thấy trong tối nay sao? Con bé không phải là cháu gái của vợ ta. Nó là con gái ta”.
Vere đờ đẫn nhìn Douglas. “Bị vỡ đầu rồi, phải không?”
Douglas cười phá lên. “Ta phải nói thật là, phần nào ta cũng rất thích thú khi nó kết hôn với một thằng ngốc”.
“Tôi không phải một thằng ngốc”, Vere lặng lẽ nói, hối hận khủng khiếp vì đã không đập người đàn ông này nhừ tử khi anh có cơ hội.
“Không? Thế thì hãy biết rằng: Nó là con gái ta. Ta biết nó. Ta biết nó gài bẫy cậu. Nó thông minh và cũng tàn nhẫn như ác quỷ. Nó sẽ sử dụng cậu cho đến khi cậu không còn gì để cho, và ai biết được, có lẽ nó sẽ giũ bỏ cậu”.
Sự hèn hạ của người đàn ông này không bao giờ làm người khác hết ngạc nhiên. Những ngón tay Vere siết chặt thành một nắm đấm. “Làm sao ông có thể nói những điều như thế về chính con gái mình?”
“Bởi vì đó là sự thật. Nó đã học được rất nhiều từ ta, một kẻ cơ hội bậc nhất. Cậu nghĩ là tại sao? Thứ lỗi cho ta, cậu không biết nghĩ, ta quên mất. Chà, ta cảm thấy thương hại cậu, đồ vụng về ngớ ngẩn”.
“Gì cơ?” Vere nói.
“Đồ ngốc nghếch ngớ ngẩn”.
Vere đấm vào mặt ông ta, gần như làm vỡ cả bàn tay mình với sức mạnh của cú đấm. Douglas rú lên đau đớn, toàn bộ cơ thể ông ta rúng động.
“Xin lỗi”, Vere vừa nói vừa mỉm cười khi thấy Douglas rùng mình trước giọng nói của anh. “Tôi làm thế khi người ta gọi tôi là ngốc nghếch. Ông đang nói gì nhỉ?”
“Tôi muốn chắc chắn rằng mình đã hiểu đúng ngài, ngài Vere. Ngài đang ngồi trong một quán rượu ở Dartmouth. Quý ông này ngồi xuống và mua cho ngài một chầu rượu. Sau khi uống xong ngài thấy mình mơ màng và choáng váng, rồi đồng ý cùng ông ta đi xem một điền trang đẹp ở Exeter. Ngài thức dậy trên sàn nhà của một ngôi nhà hoang, nhận ra rằng mình đã bị bắt cóc. Ngài chế ngự kẻ bắt cóc mình khi hắn ta mang bánh mì và nước đến, và mang hắn ta đến đây?” Thám tử Nevinson hỏi. Ông ta đang ở đồn cảnh sát, sau khi nhận được bức điện Vere đã gửi từ Paignton.
Chết tiệt cái vai diễn không bao giờ kết thúc này. Vere muốn được ở nhà – đêm nay vợ anh không nên ở một mình.
“Phải”, anh nói. “Tôi là người mà anh gọi là, à, không phải nữ thừa kế, tôi biết đó là một phụ nữ, nhưng một người đàn ông có tài sản thừa kế gọi là gì?”
“Ngài là một người giàu có”, Nevinson nói, mắt đảo tròn.
“Đúng vậy. Và vì thế, tôi biết mình bị đe dọa vì tiền. Và thằng khốn kia, thứ lỗi cho ngôn ngữ của tôi, kẻ bị trói kia đã cả gan nói rằng hắn sẽ giam giữ tôi để vợ tôi phải liên tục giao cho hắn hàng nghìn bảng. Ngay cả phép xã giao đúng đắn để đòi tiền chuộc cũng không biết, đúng không? À, cảm ơn ngài”, anh nói với thanh tra trưởng của Cảnh sát Thành phố Exeter, ông ta đang đưa cho anh một tách trà đen, đậm. “Thứ này thật tốt, thanh tra. Khó có thể thích được loại Ceylon mà các quý cô vẫn yêu thích”.
Nevinson lắc đầu. “Thưa ngài, ngài có biết ngài vừa bắt ai không?”
“Tất nhiên là không. Nói với ông rồi, chưa bao giờ nhìn thấy hắn trước đây”.
“Tên ông ta là Edmund Douglas. Nghe quen không?”
“Chúa lòng lành, tôi đã bị tay thợ may của mình bắt sao!”
“Không!” Nevinson gào lên. Ông ta lấy một hơi thở sâu và nuốt xuống một miệng trà. “Người đàn ông đó là chú của vợ ngài”.
“Điều đó là không thể. Chú vợ tôi đang ở Holloway”.
“Ông ta đã bỏ trốn khỏi Holloway”.
“Thế à?”
“Đó là lý do ông ta muốn ngài. Không phải vì ngài là một người giàu có, thưa ngài, mà vì ngài là cháu rể ông ta”.
“Thế tại sao ông ta không giới thiệu mình?”
“À, dù gì thì”, thanh tra trưởng nói, “Ngài đã bắt ông ta về đây, thưa ngài, và giúp mọi người thoát khỏi một cuộc săn lùng kéo dài. Ít nhất là, tôi nghĩ việc này đáng uống gì hơn là trà. Có lẽ, một chút whisky nhé, thám tử?”
“Làm ơn”, Nevinson nhiệt tình hưởng ứng.
Một trung sĩ cảnh sát vội vã đi vào phòng thanh tra trưởng. “Xin lỗi đã làm phiền các ngài, nhưng người đàn ông hầu tước vừa bắt đã chết rồi”.
Nevinson há hốc miệng. Vere nhảy lên, hất đổ chiếc ghế đang ngồi. “Tôi không giết ông ta”.
“Tất nhiên ngài không giết ông ta”, Nevinson sốt ruột nói. “Chuyện gì xảy ra, trung sĩ?”
“Chúng tôi không chắc, thưa ngài. Ông ta hoàn toàn khỏe mạnh. Rồi ông ta hỏi xin nước. Cảnh sát Brown đưa nước cho ông ta. Năm phút sau, khi cảnh sát Brown đến lấy cái cốc, ông ta đang nằm trên giường, đã chết”.
Họ chạy vội đến phòng giam của Douglas. Douglas nằm nghiêng, như đang ngủ, nhưng hoàn toàn không có mạch đập.
“Sao chuyện này xảy ra được?” Vere hét lên. “Ông ta chết bất đắc kỳ tử à?”
“Có vẻ là đã dùng xyanua hoặc stricnin”. Nevinson vỗ vào người Douglas. “Trên người ông ta không có gì ngoài một ít tiền và một chiếc đồng hồ”.
“Ông có nghĩ ông ta giữ thuốc độc trong đồng hồ không?” Vere hỏi, mắt mở lớn.
“Cái đó…”, Nevinson dừng lại. Ông ta dò dẫm chiếc đồng hồ; mặt đồng hồ bật mở để lộ một ngăn bí mật. “Ngài đã đúng: Còn nhiều viên thuốc nữa. Đủ để giết ba người, nếu nó là thuốc độc”.
Một cơn ớn lạnh chạy thẳng xuống xương sống Vere. Có lẽ Douglas đã dự định đầu độc vợ mình cùng bản thân. Hoặc có lẽ chúng đều để dành cho bà Douglas, sự trả thù cuối cùng, đã bị trì hoãn bấy lâu nay.
Và có lẽ cũng đủ cho cả Elissande. Máu Vere lạnh đi, mặc dù bây giờ nguy hiểm đã qua.
“Tôi cho rằng ông ta biết lần này sẽ không thoát được”, Nevinson nói. “Chúng ta đã có đủ chứng cớ. Ông ta đang tiến gần đến giá treo cổ rồi”.
Đối với một người đàn ông tìm cách làm chủ số mệnh của mình bằng bất kỳ thủ đoạn nào, ý nghĩ bị áp đặt cái chết hẳn là không thể chịu đựng được. Nhưng ít nhất giờ đây ông ta không bao giờ có thể làm hại Elissande và mẹ cô nữa.
Suy nghĩ ấy không mang đến sự nhẹ nhõm như Vere đã hy vọng. Đối với những tổn hại Douglas đã gây ra trong ngày hôm nay, và trong toàn bộ cuộc đời vô nghĩa của ông ta, ông ta lẽ ra phải chịu tất cả những đau đớn mà cơ thể con người có thể cảm nhận được trước khi chết trong nhục nhã công khai.
“Và xem này”. Nevinson đặt chiếc đồng hồ xuống sàn nhà và cho họ thấy một cái túi nhỏ. “Bên trong vẫn còn hai viên kim cương. Đó hẳn là cách ông ta đã mua chuộc tay gác tù để trốn thoát”.
Trong khi vị thám tử và thanh tra trưởng kiểm tra những viên kim cương, Vere cầm chiếc đồng hồ lên và kín đáo lần mò nó lần nữa. Đây rồi, ngăn bí mật thứ hai, và bên trong, một chiếc chìa khóa tí hon khác.
Anh cho chiếc chìa khóa vào túi và đưa chiếc đồng hồ lại cho Nevinson. “Thật là, ông ta không cần tự tử. Tôi sẽ có lời xin khoan hồng với quan tòa. Đàn ông giàu có là những mục tiêu hấp dẫn. Và sau cùng thì, ông ta là chú tôi”.
Elissande bất ngờ đến không thở nổi.
Cô đã cố gắng hít thở sâu trên chuyến tàu về nhà, cho đến khi đưa mẹ mình vào giường. Cuối cùng cô đã ở một mình, nằm trên chiếc trường kỷ trong phòng khách, một miếng gạc đặt trên mặt, một miếng khác đang được làm lạnh trong chậu nước đựng một miếng đá lấy từ hầm đá, phổi cô mở ra và thu lại như chúng phải thế.
Nhưng bây giờ cô đang bật dậy, hất miếng gạc xuống sàn nhà. Bây giờ cô đang giật cổ áo. Bây giờ bàn tay của chú cô lại đang siết chặt quanh cổ cô, chặn hết nguồn không khí mà không hề thương tiếc, không hề dao động.
Cô thở hổn hển và gấp gáp. Cô há rộng miệng và nuốt xuống lượng ôxy ít ỏi còn lại trong phòng.
Nhưng cô vẫn không lấy đủ không khí. Đầu cô quay cuồng; ngón tay tê cứng; môi râm ran một cách kỳ lạ. Cô thở nhanh hơn và sâu hơn. Ngực nhức nhối. Mắt nổ đom đóm.
Có âm thanh ở bên ngoài nhà. Có phải là một cỗ xe không? Là ai đang mở cửa chính? Cô không thể nhận ra bất cứ điều gì. Cô chỉ có thể gập người lại và nhét đầu giữa hai đầu gối, vật lộn để không bất tỉnh.
Tiếng bước chân – cô không còn một mình nữa.
“Thở chậm lại, Elissande”, anh hướng dẫn, và ngồi xuống cạnh cô. “Em phải kiểm soát hơi thở của mình”.
Anh vuốt tóc cô, hơi ấm từ cái vuốt ve của anh dễ chịu như một chiếc khăn lụa cashmere. Nhưng lời nói của anh không có nghĩa gì – cô cần không khí.
“Hít vào thật chậm, và không quá sâu. Rồi thở ra như thế.” Bàn tay anh lúc này ở trên lưng cô, một sức ép tinh tế trấn tĩnh cô.
Cô làm như anh nói. Chẳng mấy chốc cô nhận thấy rõ rành là anh đã đúng. Kiểm soát lượng không khí hít vào đã xoa dịu thần kinh của cô, một hành động ngược lại hoàn toàn với hiểu biết của cô. Sự tê liệt và râm ran biến mất; cái gọng kìm trong ngực cô tan đi cùng với sự kích động trong đầu cô.
Anh giúp cô ngồi thẳng dậy. Mắt cô vẫn còn hơi đau ở khóe mắt, nhưng cô không còn thấy những chấm sáng nhảy múa, cô chỉ nhìn thấy anh. Anh có vẻ mệt mỏi, mặt anh hơi nhăn nhó, nhưng ánh mắt anh điềm tĩnh và dịu dàng.
“Tốt hơn chưa?” Anh hỏi.
“Rồi, cám ơn anh”.
Nhưng ngón tay anh chỉ khẽ chạm vào cô, anh quay mặt cô lại để xem xét nó. “Những vết bầm sẽ trở nên xấu xí. Em nên ở trên giường, hôm nay là một ngày rất dài”.
Có phải mới chỉ sáng nay cô đã thức dậy trong niềm lạc quan bao la về tương lai, với sự chắc chắn rằng mọi mảnh ghép trong cuộc đời cô đã xếp vào đúng chỗ? Làm sao nó có thể bị phá hủy tan hoang như thế này trong khoảng thời gian ít ỏi như thế?
“Em ổn rồi”, cô máy móc lẩm bẩm.
“Thật không?”
Cô không thể giữ ánh mắt anh. Mắt cô rơi xuống tay mình. “Ông ta quay lại nhà tù chưa?”
“Ông ta đã”.
Cằm cô ngẩng phắt lên. “Đã?”
Anh ngập ngừng.
Vere vẫn ở lại sân ga, quan sát họ rời đi. Vẫn trong bộ dạng người đánh xe, anh đã đưa Elissande và dì Rachel đến ga tàu, để họ có thể bỏ Exeter và những thử thách lại sau lưng. Bà Douglas hồi phục ở nhà tốt hơn là ở một đồn cảnh sát, anh đã nói.
Nhưng đó là nhà của anh, đâu phải nhà họ?
“Anh ấy sẽ làm tốt thôi”, Elissande nói.
Anh lùi xa dần, xa dần, sự vắng mặt của anh bỗng biến thành một lỗ hổng sắc nhọn trong cô. Cuối cùng nhà ga chỉ còn là một chấm sáng trong bóng đêm và anh biến mất khỏi tầm nhìn của cô.
“Mẹ nghĩ rằng... mẹ nghĩ rằng con sẽ muốn biết mọi chuyện”, dì cô nói.
Không, không phải dì cô, mà là mẹ cô. Elissande chuyển ánh mắt sang khuôn mặt thân quen đó, đã bớt hốc hác hơn trước nhưng vẫn già hơn nhiều so với tuổi, và cảm thấy một nỗi buồn ghê gớm.
“Chỉ khi nào mẹ cảm thấy đủ khỏe để nói chuyện”.
Cô không biết cô có đủ khỏe để nghe hay không.
“Mẹ nghĩ có thể”, dì Rachel nói với một nụ cười yếu ớt. “Nhưng mẹ không biết bắt đầu từ đâu”.
Elissande nhớ lại những gì chồng cô đã thuật lại chi tiết trước đây. Để giữ mình không run rẩy là cả một nỗ lực. “Con đã biết được rằng chú con, cha con, đã vẽ mẹ như một thiên thần tốt, nhân hậu rất lâu trước khi hai người kết hôn. Mẹ không biết ông ta là ai sao?”
“Ông ta nói lần đầu tiên nhìn thấy mẹ ở Brighton, West Pier, và bị mẹ thu hút đến mức ông ta mua chuộc chủ cửa hàng ảnh mà gia đình mẹ đã chụp ảnh để có địa chỉ mà nhà mẹ đã viết lại để gửi ảnh đến, và cũng để mua một bức ảnh của mẹ. Mẹ chưa bao giờ gặp ông ta trước khi ông ta đến gặp mẹ. Ông ta tuyên bố là quen người cha cố của mẹ và mẹ không hề nghi ngờ ông ta. Mẹ đang ở trong hoàn cảnh sa sút và Charlotte đã bỏ nhà đi, mọi người nói dối để không phải tiếp đón mẹ nữa. Mẹ không nghĩ rằng có người nào lại nói dối để được gần mẹ.”
Trái tim Elissande tê tái: người mẹ cả tin, dịu dàng của cô, đơn độc trong thế giới và hoàn cảnh dễ bị tấn công bởi một con quái vật như Douglas.
“Mẹ biết sự thật khi nào?”
“Không lâu trước khi con sinh ra. Mẹ thấy cuốn nhật ký cũ của ông ta khi mẹ tìm một thứ khác, mẹ không nhớ là thứ gì. Nếu mẹ biết cuốn nhật ký thuộc về ông ta, mẹ sẽ không mở ra. Nhưng chữ viết tắt G.F.C. khắc trên bìa làm mẹ tò mò.”
Bà Douglas thở dài. “Mẹ quá ngây thơ, quá ngu ngốc, và hoàn toàn mãn nguyện với người chồng giàu có, thông minh và đẹp trai, ngay cả sự ghen tuông của ông ta mẹ cũng nghĩ là lãng mạn. Khi mẹ nhận ra rằng chữ viết của George Fairborn Carruthers và vài sự kiện trong cuộc đời người lạ này trùng khớp với những gì Edmund đã kể lại về cuộc đời mình, trong số tất cả mọi người, mẹ lại hỏi ông ta về chuyện đó.
Ông ta hẳn đã sợ hãi. Ông ta có thể lừa gạt mẹ với vài câu chuyện bịa đặt, nhưng ông ta kể cho mẹ những điều kinh khủng. Đó là lần đầu tiên mẹ nhìn thấy bản chất thực sự của ông ta, lần đầu tiên mẹ sợ hãi ông ta”.
Đó là lý do bà đã quá hãi hùng vì tin tức Stephen Delaney bị ám sát, Elissande nhận ra: Douglas hẳn đã thề với bà rằng ông ta sẽ không bao giờ cướp đoạt mạng sống của người khác nữa.
“Khi con được một tháng tuổi, chị họ con được một trung sĩ của Quân đội Cứu tế đưa đến cửa nhà chúng ta. Mẹ mất liên lạc với Charlotte nhiều năm. Mẹ không biết rằng chị ấy đã chết trong khi sinh hay là chồng chị ấy đã chết. Vị trung sĩ đó nói rằng chị ấy cố gắng đưa đứa trẻ về cho nhà Edgerton, nhưng họ từ chối thẳng thừng. Mẹ hãi hùng với việc nhận thêm một đứa trẻ khác vào nhà mình, dưới sự kiểm soát của chồng mẹ, nhưng mẹ không thể làm gì khác.
Con bé thật đáng yêu. Nó chỉ lớn hơn con một tuần tuổi và hai đứa con có thể dễ dàng bị nhầm là chị em sinh đôi. Nhưng chưa đến mười ngày sau khi con bé đến sống với chúng ta, cả hai đứa đều bị sốt. Con bé dường như khỏe hơn, trong khi mẹ đang lo sợ cho cuộc sống của con. Sự mừng rỡ mẹ cảm thấy khi cơn sốt của con bớt đi… con không thể tưởng tượng được đâu. Nhưng chỉ vài tiếng đồng hồ sau, vào giữa đêm, chị họ con chết trong tay mẹ. Trước cơn sốc đó, mẹ không thể ngừng khóc. Mẹ nghĩ chắc chắn con bé sẽ không chết nếu nó ở với nhà Edgerton. Mẹ sợ rằng nhà Edgerton đã nhận ra sai lầm và sáng mai sẽ đến để nhận lại con bé. Lúc đó mẹ sẽ nói gì với họ?
Sau đó mẹ nghĩ ra. Chú con… cha con đã đi làm việc ở Antwerp, và cô vú nuôi đã bị sa thải vì bà quản gia đã bắt gặp cô ta với một người hầu. Nếu mẹ tuyên bố con đã chết thay vì chị họ con, không ai biết được. Rồi khi nhà Edgerton đến, con có thể đi với họ và sống cuộc sống không có cha con, điều mà mẹ không thể làm. Khi mẹ đã quyết định, mẹ gửi thư báo tử cho mọi người mẹ biết, đó là trước khi cha con chuyển chúng ta về nông thôn, và mẹ vẫn có vài người bạn. Việc đó khiến cho cái chết của con được chính thức hóa. Không ai nghi ngờ rằng một người mẹ lại không nhận ra chính đứa con của mình”.
Bà chấm khăn tay lên khóe mắt. “Mẹ phải nói rằng nhà Edgerton làm mẹ thất vọng ghê gớm. Mẹ gửi cho họ rất nhiều thư. Mẹ gửi những tấm ảnh của con. Họ chưa bao giờ hồi đáp”.
Elissande cũng phải lau mắt mình. “Được rồi mà. Mẹ đã làm điều tốt nhất”.
“Không phải. Mẹ là một người mẹ tồi tệ, một gánh nặng vô dụng đối với con”.
Elissande lắc đầu. “Làm ơn đừng nói thế. Chúng ta đều biết rằng ông ta là loại người nào. Ông ta sẽ giết mẹ nếu mẹ cố gắng bỏ đi”.
“Mẹ nên giúp con bỏ đi. Ông ta không nhất thiết phải có quyền thống trị cả hai chúng ta”.
Elissande vươn tay qua không gian hẹp giữa hai chiếc ghế và chạm vào má mẹ mình. “Con không hoàn toàn là một tù nhân: Con có Capri. Con luôn luôn tưởng tượng mình ở đó, cách xa khỏi ông ta”.
“Mẹ cũng thế”, bà Douglas nói, nhét chiếc khăn vào cổ tay áo.
Elissande kinh ngạc. “Mẹ cũng tưởng tượng mình ở Capri?”
“Không, mẹ tưởng tượng con ở đó. Mẹ rất thích một đoạn con thường đọc cho mẹ nghe.
Mẹ vẫn còn nhớ vài câu: ‘Như Venice, Capri là một điểm đến thường xuyên trong hành trình của du khách, tách biệt với miền đất liền Ý về đặc điểm tự nhiên và xã hội’”, bà Douglas nhắc lại, mắt bà đăm chiêu, “‘một vùng quê tươi sáng, đầy gió biển, với những tiếng thì thầm sâu thẳm của quá khứ rì rào như những con sóng trong hang động’.
Mẹ hình dung con khám phá những hang động đó, mẹ đã đọc về sự khai phá Hang Động Xanh khi mẹ còn là con gái, nó có vẻ rất thú vị. Khi con đã khám phá đầy đủ về những hang động, con sẽ ăn tối trong một trang trại và ăn những thức ăn thôn quê ngon lành làm từ thảo dược và ô liu. Và khi buổi chiều đến, con sẽ trở lại ngôi nhà trên vách đá cao và quan sát mặt trời lặn xuống trên Địa Trung Hải”.
Nước mắt lại dâng lên trong mắt Elissande. “Con không tin rằng con từng nghĩ đến chuyện sẽ ăn gì hay sống ở đâu ở Capri”.
“Cũng không sao. Nhưng mẹ là mẹ con. Khi mẹ nghĩ đến chuyện con ở xa, mẹ muốn nghĩ rằng con được ăn uống đầy đủ và nghỉ ngơi an toàn”.
Nhưng mẹ là mẹ con. Những từ ngữ này vừa gây bối rối vừa đẹp đẽ như lần đầu tiên nhìn thấy những vì sao.
“Và mẹ tưởng tượng có một đường đi dễ dàng từ ngôi nhà của con đến trung tâm hòn đảo và những khách sạn mà tất cả du khách người Anh tụ họp. Để khi buồn hoặc cô đơn, con có thể đi đến đó uống trà hoặc ăn tối. Và có lẽ một chàng trai trẻ tốt bụng có thể ghé chơi với con”.
Bà Douglas ngập ngừng mỉm cười. “Mẹ tưởng tượng cả một cuộc sống đầy đủ cho con, ở một nơi mẹ chưa bao giờ nhìn thấy”.
Elissande luôn biết rằng người đàn bà trước mặt cô yêu cô, nhưng cô chưa bao giờ biết tình yêu đó nhiều đến như thế nào. “Một cuộc sống thật tuyệt vời”, cô nghẹn lời.
“Gần tuyệt vời như cuộc đời của con với ngài Vere”. Bà Douglas nắm tay cô. “Con là một người may mắn, Ellie ạ”.
Cuộc hôn nhân của cô là một điều đáng xấu hổ, chồng cô sẵn sàng trả một số tiền lớn để không bao giờ phải nhìn thấy cô nữa. Và người đàn ông cô khinh miệt nhất lại hóa thành cha cô, cô vẫn còn quá tê liệt để hiểu được cơn biến động này. Nhưng bà Douglas không sai. Elissande là người may mắn: Cô vẫn có mẹ, an toàn và khỏe mạnh.
Cô nghiêng người về phía trước và hôn lên trán mẹ. “Vâng, và con biết rất rõ điều đó”.
Vere dõi mắt theo con tàu mang vợ anh biến mất trong đêm tối.
Anh nghĩ anh đã biết tường tận mọi điều quanh co ngoắt ngoéo về trường hợp của Douglas. Nhưng những khám phá tối nay vẫn làm anh rúng động tâm can.
Cô có rối loạn không? Cô có chối bỏ không? Thậm chí là cô có hiểu được mọi chuyện đã xảy ra hay không?
Thay vì cho phép mình bị cuốn hút bởi những bí mật chưa được tiết lộ, anh nên cảm thấy tai họa sắp xảy đến. Anh nên sử dụng thuốc mê nhanh hơn. Nếu anh hành động sớm hơn một phút, anh có thể bảo vệ được niềm vui sướng vì không biết sự thật của cô.
Cô đã cực kỳ vui vẻ - thế giới ảm đạm, xấu xa này thật mới mẻ và xinh đẹp trong mắt cô. Một lần ở bữa tối, cô đã kể lại sự kinh ngạc của dì cô trong chuyến đi Dartmouth. Và anh suýt nữa đã bình luận về sự kinh ngạc anh nhìn thấy trên khuôn mặt cô mỗi ngày, cô tìm thấy niềm vui không thể tin được từ những thứ nhỏ nhặt nhất.
Cuối cùng, anh đã không nói gì. Niềm vui của cô làm anh bất an: Nó là một ngọn lửa, một ngọn lửa nguy hiểm mà anh sợ rằng nó sẽ thiêu cháy anh nếu anh ngu ngốc lao vào nó. Cho đến lúc này anh không biết rằng anh đã nghĩ nó đẹp đẽ đến mức nào. Anh đã trân trọng nó ra sao.
Anh đã không dám nhận lấy niềm hạnh phúc như thế cho mình, anh không xứng đáng, nhưng anh muốn cô có được nó. Niềm vui của cô là niềm vui tinh khiết phải khó khăn lắm mới có được. Và anh cảm thấy nó tan vỡ bên trong anh, những mảnh vỡ của nỗi đau đâm thủng mọi hơi thở của anh.
Khi anh trở lại ngôi nhà Douglas đã chọn để thực hiện kế hoạch của mình, Holbrook, cũng ăn mặc như một người đánh xe, đang đứng gác dưới ánh đèn đường hiu hắt.
“Người của chúng ta đã đến rồi”, anh ta nói thay cho lời chào.
Vere gật đầu. “Tôi sẽ thay quần áo và chúng ta sẽ mang hắn đi”.
Anh thay quần áo ở trong nhà. Sau đó cùng Holbrook mang Douglas, vẫn còn bị trói chặt, vào cỗ xe hai bánh của Holbrook. Holbrook leo lên ghế đánh xe; Vere trèo vào trong xe và ngồi cạnh Douglas.
“Vậy là, cậu là con rể của ta”, Douglas nói.
Vere cảm thấy sởn gai ốc khi người đàn ông này mở miệng nói. “Hả?” anh nói. “Không, không, tôi kết hôn với cháu gái của vợ ông”.
“Cậu không hiểu những gì đã nghe thấy trong tối nay sao? Con bé không phải là cháu gái của vợ ta. Nó là con gái ta”.
Vere đờ đẫn nhìn Douglas. “Bị vỡ đầu rồi, phải không?”
Douglas cười phá lên. “Ta phải nói thật là, phần nào ta cũng rất thích thú khi nó kết hôn với một thằng ngốc”.
“Tôi không phải một thằng ngốc”, Vere lặng lẽ nói, hối hận khủng khiếp vì đã không đập người đàn ông này nhừ tử khi anh có cơ hội.
“Không? Thế thì hãy biết rằng: Nó là con gái ta. Ta biết nó. Ta biết nó gài bẫy cậu. Nó thông minh và cũng tàn nhẫn như ác quỷ. Nó sẽ sử dụng cậu cho đến khi cậu không còn gì để cho, và ai biết được, có lẽ nó sẽ giũ bỏ cậu”.
Sự hèn hạ của người đàn ông này không bao giờ làm người khác hết ngạc nhiên. Những ngón tay Vere siết chặt thành một nắm đấm. “Làm sao ông có thể nói những điều như thế về chính con gái mình?”
“Bởi vì đó là sự thật. Nó đã học được rất nhiều từ ta, một kẻ cơ hội bậc nhất. Cậu nghĩ là tại sao? Thứ lỗi cho ta, cậu không biết nghĩ, ta quên mất. Chà, ta cảm thấy thương hại cậu, đồ vụng về ngớ ngẩn”.
“Gì cơ?” Vere nói.
“Đồ ngốc nghếch ngớ ngẩn”.
Vere đấm vào mặt ông ta, gần như làm vỡ cả bàn tay mình với sức mạnh của cú đấm. Douglas rú lên đau đớn, toàn bộ cơ thể ông ta rúng động.
“Xin lỗi”, Vere vừa nói vừa mỉm cười khi thấy Douglas rùng mình trước giọng nói của anh. “Tôi làm thế khi người ta gọi tôi là ngốc nghếch. Ông đang nói gì nhỉ?”
“Tôi muốn chắc chắn rằng mình đã hiểu đúng ngài, ngài Vere. Ngài đang ngồi trong một quán rượu ở Dartmouth. Quý ông này ngồi xuống và mua cho ngài một chầu rượu. Sau khi uống xong ngài thấy mình mơ màng và choáng váng, rồi đồng ý cùng ông ta đi xem một điền trang đẹp ở Exeter. Ngài thức dậy trên sàn nhà của một ngôi nhà hoang, nhận ra rằng mình đã bị bắt cóc. Ngài chế ngự kẻ bắt cóc mình khi hắn ta mang bánh mì và nước đến, và mang hắn ta đến đây?” Thám tử Nevinson hỏi. Ông ta đang ở đồn cảnh sát, sau khi nhận được bức điện Vere đã gửi từ Paignton.
Chết tiệt cái vai diễn không bao giờ kết thúc này. Vere muốn được ở nhà – đêm nay vợ anh không nên ở một mình.
“Phải”, anh nói. “Tôi là người mà anh gọi là, à, không phải nữ thừa kế, tôi biết đó là một phụ nữ, nhưng một người đàn ông có tài sản thừa kế gọi là gì?”
“Ngài là một người giàu có”, Nevinson nói, mắt đảo tròn.
“Đúng vậy. Và vì thế, tôi biết mình bị đe dọa vì tiền. Và thằng khốn kia, thứ lỗi cho ngôn ngữ của tôi, kẻ bị trói kia đã cả gan nói rằng hắn sẽ giam giữ tôi để vợ tôi phải liên tục giao cho hắn hàng nghìn bảng. Ngay cả phép xã giao đúng đắn để đòi tiền chuộc cũng không biết, đúng không? À, cảm ơn ngài”, anh nói với thanh tra trưởng của Cảnh sát Thành phố Exeter, ông ta đang đưa cho anh một tách trà đen, đậm. “Thứ này thật tốt, thanh tra. Khó có thể thích được loại Ceylon mà các quý cô vẫn yêu thích”.
Nevinson lắc đầu. “Thưa ngài, ngài có biết ngài vừa bắt ai không?”
“Tất nhiên là không. Nói với ông rồi, chưa bao giờ nhìn thấy hắn trước đây”.
“Tên ông ta là Edmund Douglas. Nghe quen không?”
“Chúa lòng lành, tôi đã bị tay thợ may của mình bắt sao!”
“Không!” Nevinson gào lên. Ông ta lấy một hơi thở sâu và nuốt xuống một miệng trà. “Người đàn ông đó là chú của vợ ngài”.
“Điều đó là không thể. Chú vợ tôi đang ở Holloway”.
“Ông ta đã bỏ trốn khỏi Holloway”.
“Thế à?”
“Đó là lý do ông ta muốn ngài. Không phải vì ngài là một người giàu có, thưa ngài, mà vì ngài là cháu rể ông ta”.
“Thế tại sao ông ta không giới thiệu mình?”
“À, dù gì thì”, thanh tra trưởng nói, “Ngài đã bắt ông ta về đây, thưa ngài, và giúp mọi người thoát khỏi một cuộc săn lùng kéo dài. Ít nhất là, tôi nghĩ việc này đáng uống gì hơn là trà. Có lẽ, một chút whisky nhé, thám tử?”
“Làm ơn”, Nevinson nhiệt tình hưởng ứng.
Một trung sĩ cảnh sát vội vã đi vào phòng thanh tra trưởng. “Xin lỗi đã làm phiền các ngài, nhưng người đàn ông hầu tước vừa bắt đã chết rồi”.
Nevinson há hốc miệng. Vere nhảy lên, hất đổ chiếc ghế đang ngồi. “Tôi không giết ông ta”.
“Tất nhiên ngài không giết ông ta”, Nevinson sốt ruột nói. “Chuyện gì xảy ra, trung sĩ?”
“Chúng tôi không chắc, thưa ngài. Ông ta hoàn toàn khỏe mạnh. Rồi ông ta hỏi xin nước. Cảnh sát Brown đưa nước cho ông ta. Năm phút sau, khi cảnh sát Brown đến lấy cái cốc, ông ta đang nằm trên giường, đã chết”.
Họ chạy vội đến phòng giam của Douglas. Douglas nằm nghiêng, như đang ngủ, nhưng hoàn toàn không có mạch đập.
“Sao chuyện này xảy ra được?” Vere hét lên. “Ông ta chết bất đắc kỳ tử à?”
“Có vẻ là đã dùng xyanua hoặc stricnin”. Nevinson vỗ vào người Douglas. “Trên người ông ta không có gì ngoài một ít tiền và một chiếc đồng hồ”.
“Ông có nghĩ ông ta giữ thuốc độc trong đồng hồ không?” Vere hỏi, mắt mở lớn.
“Cái đó…”, Nevinson dừng lại. Ông ta dò dẫm chiếc đồng hồ; mặt đồng hồ bật mở để lộ một ngăn bí mật. “Ngài đã đúng: Còn nhiều viên thuốc nữa. Đủ để giết ba người, nếu nó là thuốc độc”.
Một cơn ớn lạnh chạy thẳng xuống xương sống Vere. Có lẽ Douglas đã dự định đầu độc vợ mình cùng bản thân. Hoặc có lẽ chúng đều để dành cho bà Douglas, sự trả thù cuối cùng, đã bị trì hoãn bấy lâu nay.
Và có lẽ cũng đủ cho cả Elissande. Máu Vere lạnh đi, mặc dù bây giờ nguy hiểm đã qua.
“Tôi cho rằng ông ta biết lần này sẽ không thoát được”, Nevinson nói. “Chúng ta đã có đủ chứng cớ. Ông ta đang tiến gần đến giá treo cổ rồi”.
Đối với một người đàn ông tìm cách làm chủ số mệnh của mình bằng bất kỳ thủ đoạn nào, ý nghĩ bị áp đặt cái chết hẳn là không thể chịu đựng được. Nhưng ít nhất giờ đây ông ta không bao giờ có thể làm hại Elissande và mẹ cô nữa.
Suy nghĩ ấy không mang đến sự nhẹ nhõm như Vere đã hy vọng. Đối với những tổn hại Douglas đã gây ra trong ngày hôm nay, và trong toàn bộ cuộc đời vô nghĩa của ông ta, ông ta lẽ ra phải chịu tất cả những đau đớn mà cơ thể con người có thể cảm nhận được trước khi chết trong nhục nhã công khai.
“Và xem này”. Nevinson đặt chiếc đồng hồ xuống sàn nhà và cho họ thấy một cái túi nhỏ. “Bên trong vẫn còn hai viên kim cương. Đó hẳn là cách ông ta đã mua chuộc tay gác tù để trốn thoát”.
Trong khi vị thám tử và thanh tra trưởng kiểm tra những viên kim cương, Vere cầm chiếc đồng hồ lên và kín đáo lần mò nó lần nữa. Đây rồi, ngăn bí mật thứ hai, và bên trong, một chiếc chìa khóa tí hon khác.
Anh cho chiếc chìa khóa vào túi và đưa chiếc đồng hồ lại cho Nevinson. “Thật là, ông ta không cần tự tử. Tôi sẽ có lời xin khoan hồng với quan tòa. Đàn ông giàu có là những mục tiêu hấp dẫn. Và sau cùng thì, ông ta là chú tôi”.
Elissande bất ngờ đến không thở nổi.
Cô đã cố gắng hít thở sâu trên chuyến tàu về nhà, cho đến khi đưa mẹ mình vào giường. Cuối cùng cô đã ở một mình, nằm trên chiếc trường kỷ trong phòng khách, một miếng gạc đặt trên mặt, một miếng khác đang được làm lạnh trong chậu nước đựng một miếng đá lấy từ hầm đá, phổi cô mở ra và thu lại như chúng phải thế.
Nhưng bây giờ cô đang bật dậy, hất miếng gạc xuống sàn nhà. Bây giờ cô đang giật cổ áo. Bây giờ bàn tay của chú cô lại đang siết chặt quanh cổ cô, chặn hết nguồn không khí mà không hề thương tiếc, không hề dao động.
Cô thở hổn hển và gấp gáp. Cô há rộng miệng và nuốt xuống lượng ôxy ít ỏi còn lại trong phòng.
Nhưng cô vẫn không lấy đủ không khí. Đầu cô quay cuồng; ngón tay tê cứng; môi râm ran một cách kỳ lạ. Cô thở nhanh hơn và sâu hơn. Ngực nhức nhối. Mắt nổ đom đóm.
Có âm thanh ở bên ngoài nhà. Có phải là một cỗ xe không? Là ai đang mở cửa chính? Cô không thể nhận ra bất cứ điều gì. Cô chỉ có thể gập người lại và nhét đầu giữa hai đầu gối, vật lộn để không bất tỉnh.
Tiếng bước chân – cô không còn một mình nữa.
“Thở chậm lại, Elissande”, anh hướng dẫn, và ngồi xuống cạnh cô. “Em phải kiểm soát hơi thở của mình”.
Anh vuốt tóc cô, hơi ấm từ cái vuốt ve của anh dễ chịu như một chiếc khăn lụa cashmere. Nhưng lời nói của anh không có nghĩa gì – cô cần không khí.
“Hít vào thật chậm, và không quá sâu. Rồi thở ra như thế.” Bàn tay anh lúc này ở trên lưng cô, một sức ép tinh tế trấn tĩnh cô.
Cô làm như anh nói. Chẳng mấy chốc cô nhận thấy rõ rành là anh đã đúng. Kiểm soát lượng không khí hít vào đã xoa dịu thần kinh của cô, một hành động ngược lại hoàn toàn với hiểu biết của cô. Sự tê liệt và râm ran biến mất; cái gọng kìm trong ngực cô tan đi cùng với sự kích động trong đầu cô.
Anh giúp cô ngồi thẳng dậy. Mắt cô vẫn còn hơi đau ở khóe mắt, nhưng cô không còn thấy những chấm sáng nhảy múa, cô chỉ nhìn thấy anh. Anh có vẻ mệt mỏi, mặt anh hơi nhăn nhó, nhưng ánh mắt anh điềm tĩnh và dịu dàng.
“Tốt hơn chưa?” Anh hỏi.
“Rồi, cám ơn anh”.
Nhưng ngón tay anh chỉ khẽ chạm vào cô, anh quay mặt cô lại để xem xét nó. “Những vết bầm sẽ trở nên xấu xí. Em nên ở trên giường, hôm nay là một ngày rất dài”.
Có phải mới chỉ sáng nay cô đã thức dậy trong niềm lạc quan bao la về tương lai, với sự chắc chắn rằng mọi mảnh ghép trong cuộc đời cô đã xếp vào đúng chỗ? Làm sao nó có thể bị phá hủy tan hoang như thế này trong khoảng thời gian ít ỏi như thế?
“Em ổn rồi”, cô máy móc lẩm bẩm.
“Thật không?”
Cô không thể giữ ánh mắt anh. Mắt cô rơi xuống tay mình. “Ông ta quay lại nhà tù chưa?”
“Ông ta đã”.
Cằm cô ngẩng phắt lên. “Đã?”
Anh ngập ngừng.