Chương : 15
Giờ thứ 8 của 45
Ron. Tôi, Percey đây. Mọi người sao rồi?”
“Sợ hãi”, ông ta trả lời. “Tôi cho Sally về rồi. Bà ấy không thể…”
“Bà ấy làm sao cơ?”
“Chỉ là quá sợ hãi trước những gì vừa xảy ra. Cả Carol. Và Lauren nữa. Lauren hoàn toàn mất khả năng kiểm soát rồi. Tôi chưa bao giờ thấy ai suy sụp đến mức ấy. Cô và Brit thế nào?”
“Brit gần như phát điên. Cả tôi cũng thế. Thật là một mớ hỗn loạn tồi tệ. Ôi, Ron…
“Thế còn thám tử kia, tay cảnh sát trẻ bị bắn ấy?”
“Tôi không nghĩ là lúc này họ đã biết chắc chắn điều gì. Thế chiếc Foxtrot Bravo sao rồi?”
“Cũng không đến nỗi quá tệ. Tôi vừa thay xong cửa sổ buồng lái. May mà bình nhiên liệu không bị thủng. Động cơ số hai… đó cũng là một vấn đề. Chúng ta phải cho thay khá nhiều phần vỏ ngoài. Chúng tôi đang cố tìm một bình cứu hỏa mới. Tôi không nghĩ đó là một vấn đề quá lớn…”
“Nhưng sẽ phải thay vòng xuyến annular[63].”
“Buồng đốt sao? Thay thế? Ôi, lạy Chúa.”
“Tôi đã gọi điện cho nhà phân phối Garrett ở Connecticut rồi. Họ đồng ý ngày mai sẽ cho chuyển buồng đốt mới đến, cho dù mai là Chủ nhật. Tôi có thể lắp nó trong vòng khoảng hai, ba tiếng.”
“Chết tiệt”, cô lẩm bẩm, “tôi phải đến đó… tôi hứa với họ là tôi sẽ ở yên đây nhưng, quỷ tha ma bắt nó đi, tôi phải đến đó”.
“Cô đang ở đâu vậy, Percey?”
Và Stephen Kall, lúc này đang ngồi trong căn hộ tối tăm của Sheila Horowitz và căng tai lắng nghe cuộc trò chuyện này, sẵn sàng giấy bút để ghi. Hắn áp sát điện thoại vào tai mình.
Nhưng Người vợ chỉ nói, “Ở Manhattan. Có khoảng một nghìn cảnh sát xung quanh chúng tôi. Tôi cảm thấy như thể mình là Giáo hoàng hay Tổng thống vậy”.
Stephen đã nghe được những thông báo trên làn sóng bộ đàm của cảnh sát về một số hoạt động đáng ngờ diễn ra quanh Đồn Cảnh sát Hai mươi, thuộc khu Upper West Side. Trụ sở đồn cảnh sát đang được phong tỏa còn những đối tượng bị tạm giam cũng đang được chuyển đi nơi khác. Hắn phân vân không biết liệu đó có phải là nơi Người vợ đang ẩn náu lúc này không – ngay trong đồn cảnh sát.
Ron hỏi, “Liệu họ có ngăn chặn được tên đó không? Họ đã có manh mối gì chưa?”
Đúng, chúng đã biết gì chưa? Stephen băn khoăn.
“Tôi không biết”, cô trả lời.
“Nhưng phát súng lúc nãy”, Ron nói. “Lạy Chúa, chúng thật đáng sợ. Làm tôi nhớ đến hồi còn tại ngũ. Cô biết đấy, tiếng súng nổ.”
Stephen lại băn khoăn về tay Ron này. Liệu ông ta có thể giúp ích được gì không nhỉ?
Xâm nhập, đánh giá…tra hỏi.
Stephen cân nhắc việc theo dõi rồi tra tấn người đàn ông này để bắt ông ta gọi lại cho Percey và hỏi địa chỉ ngôi nhà an toàn…
Nhưng ngay cả khi hắn có lọt qua được hàng rào an ninh ở sân bay đi nữa thì đó vẫn là một trò mạo hiểm. Và lại mất rất nhiều thời gian.
Trong lúc chăm chú lắng nghe cuộc trò chuyện của họ trên điện thoại, Stephen dán mắt vào màn hình chiếc laptop mở trước mặt. Một tin nhắn hiển thị, Xin vui lòng chờ, vẫn đang nhấp nháy. Thiết bị nghe trộm điều khiển từ xa được gắn với một hộp rờ le tiếp âm của công ty NYNEX gần sân bay và vẫn liên tục chuyển những cuộc nói chuyện từ đường dây này tới máy ghi âm của Stephen cả tuần nay. Kể ra hắn cũng ngạc nhiên là cảnh sát chưa phát hiện ra nó.
Một con mèo – Esmeralda, Essie, con giòi – trèo lên mặt bàn và uốn cong lưng. Stephen có thể nghe rõ tiếng gừ gừ đầy khó chịu của nó.
Hắn bắt đầu cảm thấy nhớp nháp.
Hắn giật mạnh cùi chỏ một cách thô bạo, hất tung con mèo xuống sàn nhà và khoái trá nghe tiếng con vật gào lên thảm thiết.
“Tôi vẫn tìm kiếm thêm các phi công”, Ron nói, không giấu được vẻ khó chịu. “Tôi phải…”
“Chúng ta chỉ cần một người. Phi công phụ cho chiếc ghế bên phải.”
Một thoáng im lặng. “Gì cơ?” Ron hỏi.
“Tôi sẽ phụ trách chuyến bay ngày mai. Tất cả những gì tôi cần là một phi công có chứng chỉ.”
"Cô ư? Tôi không cho đó là một ý tưởng hay đâu, Perce.”
“Thế anh còn người nào không?” Cô hỏi cụt lủn.
“Hừm, vấn đề là…”
“Anh còn người nào không?”
“Brad Torgeson cũng có trong danh sách gọi. Anh ta bảo không hề e ngại gì việc giúp đỡ chúng ta. Anh ta hiểu tình hình hiện nay.”
“Tốt lắm. Một phi công can đảm. Số giờ bay với loại Lear của anh ta thế nào?”
“Cũng nhiều… Percey, tôi tưởng cô sẽ phải nằm yên đến khi bồi thẩm đoàn triệu tập.”
“Lincoln đồng ý để tôi thực hiện chuyến bay ngày mai. Nếu tôi ở yên đây đến lúc đó.”
“Lincoln là ai?”
Đúng, Stephen thầm nghĩ, Lincoln là ai?
“À, anh ta là một người kỳ quặc…” Người vợ ngần ngừ, như thể cô ta muốn nói về tên Lincoln kia nhưng không biết phải nói gì. Stephen thất vọng khi cô ta chỉ nói, “Anh ta đang hợp tác với cảnh sát, cố truy lùng tên giết người. Tôi bảo anh ta tôi sẽ ở yên đây đến ngày mai, nhưng kiểu gì tôi cũng phải thực hiện bằng được chuyến bay. Anh ta đồng ý.”
“Percey, chúng ta có thể hoãn chuyến bay lại mà. Tôi sẽ nói với bên U.S. Medical. Họ biết chúng ta đang gặp một số…”
“Không”, cô nói dứt khoát. “Họ không muốn nghe những lời thanh minh nữa đâu. Họ muốn hàng được chuyển đến nơi theo đúng lịch trình. Và nếu chúng ta không làm được họ sẽ tìm người khác. Khi nào thì họ đưa hàng đến?”
“Khoảng sáu, bảy giờ tối gì đấy.”
“Tôi sẽ có mặt ở đó lúc cuối giờ chiều. Tôi sẽ giúp anh thay buồng đốt.”
“Percey”, ông ta thở khò khè. “Mọi chuyện rồi sẽ ổn cả thôi.”
“Chúng ta sẽ sửa xong động cơ. Mọi chuyện sẽ tốt đẹp.”
“Chắc lúc này cô đang đau khổ lắm”, Ron nói.
“Cũng không hẳn”, cô nói.
Chưa thôi, Stephen thầm sửa lại.
Chú thích
[63]Vòng xuyến annular: Buồng đốt dạng annular gồm hai vành, phần ở giữa hai vành là buồng đốt. Hiệu suất/ thể tích đốt là rất lớn bởi trộn được tối ưu hóa, tận dụng tốt luồng khí đi vào làm mát cho buồng đốt và giảm nhiệt độ dòng khí sau khi ra khỏi buồng đốt. Buồng đốt dạng annular thường được lắp cho các động cơ công suất lớn.
Sachs bẻ quặt tay lái cho chiếc Wagon RRV lao vào góc phố với tốc độ 40 dặm một giờ. Cô nhận ra có đến một tá đặc vụ tác chiến đang đi tuần trên phố.
Các đội của Fred Dellray đang bao vây tòa nhà nơi Sheila Horowitz sống. Một tòa nhà xây bằng đá hộc đặc trưng của khu Upper West Side, bên cạnh một cửa hàng bán đồ ăn Hàn Quốc, phía trước cửa có một người làm công đang ngồi phệt trên thùng đựng sữa chăm chút gọt cà rốt cho món sa lát và hờ hững nhìn những đặc vụ cả nam lẫn nữ tay lăm lăm súng tiểu liên đang bao vây tòa nhà.
Sachs tìm thấy Dellray, vũ khí đã rút khỏi bao, trong gian sảnh lớn, anh đang kiểm tra danh sách những người sống trong tòa nhà.
S.Horowitz. 204.
Anh nói vào máy bộ đàm của mình. “Chúng ta đang ở 480,34.”
Đó là tần số riêng dành cho tác chiến cấp độ chiến thuật của lực lượng liên bang. Sachs điều chỉnh lại tần số trên máy bộ đàm của mình trong khi Dellray nhòm vào thùng thư của cô nàng Horowitz với một chiếc đèn pin nhỏ màu đen. “Hôm nay cô ta chưa hề lấy thứ gì. Có cảm giác là cô gái này không còn nữa.” Rồi anh nói, “Chúng ta đã bố trí người đứng phục ở cầu thang cứu hỏa cả tầng trên rồi tầng dưới với camera theo dõi và cả máy thu tín hiệu âm thanh. Chưa phát hiện được ai trong nhà. Nhưng chúng ta đang thu được một số tiếng cào và gừ gừ. Dù không có âm thanh gì của con người. Cô ta nuôi mèo, nhớ chứ. Anh ấy quả là cự phách, nghĩ ngay đến những bác sĩ thú y. Tôi đang muốn nói đến anh chàng Rhyme của chúng ta ấy mà”.
Tôi biết anh định nói đến ai, cô thầm nghĩ.
Ngoài trời, gió đang gào rú và một dải mây đen kịt đang che phủ lấy thành phố. Những đám mây cũng tầng tầng lớp lớp tím bầm.
Dellray quát khẽ vào máy bộ đàm. “Tất cả các đội. Báo cáo tình hình?”
“Đội Đỏ. Chúng tôi đang ở cầu thang cứu hỏa.”
“Đội Xanh. Tầng hai.”
“Đã rõ”, Dellray làu bàu. “S&S[64]. Báo cáo đi.”
“Vẫn chưa có gì chắc chắn. Chúng tôi thu được tín hiệu hồng ngoại rất yếu. Ai hoặc cái gì trong đó vẫn nằm yên bất động. Có thể là một con mèo đang ngủ. Hoặc là một nạn nhân bị thương. Hoặc có thể là một bóng đèn hiệu hay một chiếc đèn bật sẵn từ lâu. Mặc dù vậy cũng có thể đó chính là đối tượng. Ở sâu hẳn phía trong căn hộ.”
“Xin hỏi, vậy các anh nghĩ thế nào?”, Sachs lên tiếng.
“Ai đấy?”, tay đặc vụ hỏi lại qua sóng bộ đàm.
“NYPD. Số 5885”, Sachs trả lời bằng cách đọc số phù hiệu của mình. “Tôi muốn biết ý kiến của anh. Anh có nghĩ rằng đối tượng đang ở bên trong không?”
“Tại sao cô lại hỏi vậy?”, Dellray muốn biết.
“Tôi muốn có một hiện trường còn nguyên vẹn. Tôi muốn được vào đó một mình nếu họ cho rằng hắn không còn bên trong.” Một lối vào được mở bằng thuốc nổ với cả tá sĩ quan đặc nhiệm chiến thuật có lẽ là cách hiệu quả nhất để phá hủy hoàn toàn một hiện trường vụ án.
Dellray chằm chằm nhìn cô trong giây lát, khuôn mặt đen bóng của anh càng tối sầm hơn, rồi anh nói vào mic, “Quan điểm của các anh thế nào, S&S?”.
“Chúng tôi chưa thể chắc chắn được, thưa sếp”, tay đặc vụ có giọng khàn khàn quái gở trả lời.
“Biết là các cậu không thể rồi, Billy. Chỉ là hãy nói những gì bản năng mách bảo cậu thôi.”
Một khoảng im lặng, và rồi, “Tôi nghĩ hắn đã cao chạy xa bay. Tôi nghĩ bên trong không còn ai.”
“Được rồi”. Anh quay sang Sachs và nói, “Nhưng cô phải để một sĩ quan khác đi cùng. Đó là mệnh lệnh đấy”.
“Nếu thế thì tôi vẫn phải vào trước. Anh ta có thể yểm trợ cho tôi từ cửa ra vào. Anh hãy nhớ, tên này chưa hề để lại dấu vết ở bất kỳ đâu. Chúng ta cần phải thử mọi cơ may thôi.”
“Được rồi, sĩ quan.” Dellray gất đầu với mấy đặc vụ SWAT liên bang. “Đồng ý cho vào”, anh làu bàu khi phải từ bỏ kiểu ngôn ngữ đường phố của mình để ra lệnh.
Một trong số những đặc vụ chiến thuật vô hiệu hóa cánh cửa ở hành lang trong vỏn vẹn có ba mươi giây.
“Khoan đã”, Dellray nói, rồi hất đầu về một bên. “Có một cuộc gọi từ Trung tâm.” Anh nói vào bộ đàm, “Cung cấp cho họ tần số đi”. Anh quay sang nhìn Sachs, “Lincoln gọi cho cô này”.
Một lát sau giọng nhà hình sự học vang lên. “Sachs”, anh nói, “cô đang làm gì vậy?”.
“Tôi chỉ định…”
“Nghe này”, anh vội cắt ngang “Không được vào trong một mình. Để họ phong tỏa an toàn hiện trường an toàn trước đã. Cô biết quy định rồi.”
“Tôi đã có người yểm trợ…”
“Không, hãy để SWAT phong tỏa hiện trường trước đã.”
“Họ chắc chắn hắn không còn trong đó”, cô nói dối.
“Ngần ấy cũng chưa đủ đâu”, anh vặc lại. “Nhất là với tên Vũ công. Không ai có thể nói chắc chắn bất cứ điều gì về hắn.”
Lại nữa rồi. Tôi đâu cần điều đó, Rhyme. Cô cáu kỉnh nói, “Đây là kiểu hiện trường mà hắn không nghĩ rằng chúng ta sẽ tìm ra. Thậm chí có khi hắn còn chưa lo xóa dấu vết cũng nên. Chúng ta có thể tìm thấy một dấu vân tay, một vỏ đạn nào đó. Mẹ kiếp, biết đâu còn tìm thấy thẻ tín dụng của hắn nữa ấy chứ.”
Không thấy có phản ứng gì. Hiếm khi có chuyện Rhyme lại bị ai đó làm cho cứng họng như thế này.
“Đừng có hăm dọa tôi nữa, Rhyme. Được không?”
Anh vẫn không trả lời và cô chợt có cảm giác lạ lùng rằng anh muốn cô cảm thấy bị hăm dọa. “Sachs…?”
“Sao cơ?”
“Hãy thật cẩn thận nhé” là lời khuyên duy nhất của anh, và những từ đó cũng chỉ được thốt ra rất ngập ngừng.
Rồi đột nhiên năm đặc vụ chiến thuật xuất hiện, tất cả đều đeo găng tay Nomex và có mũ trùm đầu, mặc áo giáp chống đạn màu xanh, tay lăm lăm vũ khí.
“Tôi sẽ gọi cho anh từ bên trong căn hộ”, cô nói.
Cô bắt đầu bước lên cầu thang theo sau họ, tâm trí chủ yếu tập trung vào chiếc va ly đựng đồ nghề nặng trình trịch mà cô đang xách trên cánh tay yếu của mình, tay trái, hơn là vào khẩu súng đen sì cô cầm bên tay phải.
Chú thích
[64]S&S (viết tắt của Search and Surveillance): Đội Tìm kiếm và Giám sát.
Những ngày xưa ấy, tức là những ngày trước kia, Lincoln Rhyme từng là một người thích đi bộ.
Có điều gì đó ở kiểu vận động này giúp anh thấy thư thái hơn. Một cuộc tản bộ qua Công viên Trung tâm hoặc Công viên Quảng trường Washington, hoặc bước hối hả qua Fashsion District. À mà thực ra hồi đó cứ chốc chốc anh lại dừng lại – có thể là để nhặt một mẩu bắng chứng nào đó cho cơ sở dữ liệu của phòng thí nghiệm IRD – nhưng một khi những mẩu đất hoặc cây cối hay mẫu các loại vật liệu xây dựng đã được cất giữ an toàn và nguồn gốc của chúng đã được Rhyme ghi lại cẩn thận trong sổ tay, anh sẽ lại tiếp tục con đường của mình. Cứ thế anh rảo bước hàng dặm, hàng dặm đường.
Một trong những điều bực mình nhất liên quan đến tình trạng hiện nay của anh chính là sự bất lực trong việc giải tỏa căng thẳng. Giờ đây anh chỉ có thể nhắm nghiền mắt, tì mạnh gáy lên giá đỡ của chiếc xe lăn Storm Arrow và nghiến răng ken két.
Anh bảo Thom lấy cho mình một chút whiskey.
“Chẳng phải là anh đang cần giữ cho đầu óc thư thái sao?”
“Không.”
“Tôi nghĩ là anh cần đấy.”
Quỷ tha ma bắt cậu đi, Rhyme thầm rủa, và càng nghiến răng mạnh hơn. Thom sẽ phải lau sạch hai hàm lợi bầm máu, sẽ phải bố trí mời nha sĩ đến. Và mình cũng sẽ hành hạ hắn bằng chết thì thôi.
Tiếng sấm vang rền từ xa xa vẳng lại và ánh sáng nhạt dần.
Anh hình dung Sachs đang đi phía trước đội đặc vụ chiến thuật. Cô nói đúng, tất nhiên: Một đội ESU phong tỏa toàn bộ căn hộ chắc chắn sẽ làm hỏng hết hiện trường. Dù vậy anh vẫn lo lắng cho cô đến phát ốm. Từ trước đến giờ lần nào cô cũng liều lĩnh quá mức. Anh đã nhìn thấy cô cào rách da đầu của mình, hết nhíu mày rồi lại gặm móng tay. Vốn là người không bao giờ đếm xỉa gì đến những trò mèo của các nhà tâm lý học, nhưng chỉ cần nhìn qua Rhyme cũng có thể nhận ra ngay đâu là những hành vi tự hủy hoại mình. Anh cũng đã từng ngồi cùng xe với Sachs – trong chiếc xe thể thao đã chế lại động cơ của cô. Họ đã từng lao đi với tốc độ 150 dặm một giờ và dường như cô vẫn còn lấy làm bực bội vì những con đường ngoằn ngoèo trên Long Island không cho phép cô đạt tốc độ gấp đôi con số đó.
Anh giật nẩy mình khi nghe giọng nói thì thầm của cô. “Rhyme, anh còn ở đó không?”
“Cứ nói đi, Amelia.”
Một thoáng ngập ngừng. “Đừng gọi bằng tên, Rhyme. Là điềm gở đấy.”
Anh cố gắng cười phá lên. Thầm ước giá như anh không gọi tên cô, tự hỏi không biết tại sao anh lại gọi thế.
“Nói tiếp đi.”
“Tôi đang ở cửa trước. Họ đang chuẩn bị phá sập cửa bằng rầm gỗ. Một đội khác cũng vừa báo cáo thêm. Họ thực sự không cho rằng hắn còn ở bên trong.”
“Cô đang mặc áo giáp đấy chứ?”
“Tôi xoay sở được một chiếc áo chống đạn của tay đặc vụ FBI nào đó. Trông như kiểu tôi đang mang những hộp ngũ cốc màu đen thay cho áo nịt ngực vậy.”
“Đếm đến ba”, Rhyme nghe thấy giọng của Dellray, “tất cả các đội, phá tung cửa chính và cửa sổ, phong tỏa mọi khu vực trong nhà, nhưng đứng tránh xa lối vào. Một…”.
Rhyme hoàn toàn rối bời. Anh khao khát muốn tóm được tên Vũ công biết bao – anh có thể cảm nhận rõ niềm khao khát đó. Nhưng, trời ơi, anh cũng thấy sợ hãi khủng khiếp cho cô.
“Hai…”
Sachs, mẹ kiếp, anh thầm nghĩ. Tôi không muốn cứ lo lắng về cô thế này…
“Ba…”
Anh nghe thấy một tiếng rắc khe khẽ, như một cậu thiếu niên bứt rứt bẻ đốt ngón tay, và chợt nhận ra mình đang cố chồm người về phía trước. Cổ anh run lên với một cơn co rút dữ dội , anh giật nẩy về sau. Thom xuất hiện và bắt đầu massage nó.
“Không sao đâu”, anh càu nhàu. “Cảm ơn cậu. Cậu có thể chỉ lau mồ hôi thôi được không? Làm ơn.”
Thom nhìn anh với ánh mắt nghi ngờ – vì từ “làm ơn” sau cùng – rồi lau trán cho ông chủ của mình.
Cô đang làm gì vậy, Sachs?
Anh rất muốn hỏi nhưng lại không muốn làm cô phân tâm ngay lúc này.
Rồi anh nghe thấy một tiếng thở hổn hển. Tóc sau gáy anh dựng đứng cả lên. “Lạy Chúa, Rhyme.”
“Gì thế? Hãy nói đi.”
“Người phụ nữ… người phụ nữ tên là Horowitz ấy. Cánh cửa tủ lạnh để mở. Cô ta ở bên trong. Cô ta chết rồi nhưng trông như… Ôi, lạy Chúa, mắt cô ta.”
“Sachs…”
“Dường như hắn nhét cô ta vào bên trong khi cô ta vẫn còn sống. Vì lý do quái quỷ gì mà hắn lại…”
“Hãy cố nghĩ xem, Sachs. Cố lên. Cô làm được mà.”
“Chúa ơi.”
Rhyme biết Sachs đang hoảng sợ. Anh hình dung ra nỗi khiếp đảm mà cô đang phải trải qua khi chứng kiến cái chết khủng khiếp của người phụ nữ kia.
“Hắn có trói hay dán băng dính lên người cô ta không?”.
“Có băng dính. Một loại băng dính gói đồ trong suốt dán lên miệng cô ấy thì phải. Mắt cô ấy, Rhyme, mắt cô ấy…”
“Đừng có xúc động quá, Sachs. Đoạn băng dính đó có thể là bề mặt lý tưởng để lưu lại dấu vân tay. Bề mặt sàn nhà trông thế nào?”
“Trải thảm trong phòng khách. Còn trong bếp là vải sơn trải sàn. Và…” Một tiếng thét thất thanh. “Ôi, Chúa ơi!”
“Gì thế?”
“Chỉ là một con mèo thôi. Nó nhảy ngay trước mặt tôi. Chết tiệt thật… Rhyme?”
“Sao cơ?”
“Tôi ngửi thấy mùi gì đó. Rất buồn cười.”
“Tốt lắm.” Anh đã dạy cô lúc nào cũng phải hít ngửi không khí tại một hiện trường vụ án. Đó là hành động đầu tiên mà chuyên gia khám nghiệm hiện trường cần ghi nhớ.
Nhưng “buồn cười” là thế nào nhỉ?
“Một mùi chua chua. Hóa chất thì phải. Không sao xác định chính xác được.”
“Sachs”, anh hỏi bất thình lình.
“Chính cô đã mở cánh cửa tủ lạnh à?”
“Không, tôi vào đã thấy nó như thế rồi. Hình như cánh cửa tủ lạnh được để mở với một chiếc ghế chèn vào.”
Tại sao? Rhyme tự hói. Tại sao hắn lại làm thế? Anh điên cuồng nghĩ.
“Cái mùi đó, mỗi lúc một nồng nặc hơn. Khen khét.”
Người phụ nữ kia là trò đánh lạc hướng! Bất thình lình Rhyme nghĩ ra. Hắn để ngỏ cửa cánh để bảo đảm khi đội phá cửa xông vào sẽ để ý đến nó!
Ôi, không, không thể một lần nữa!
“Sachs! Cô đang ngửi thấy mùi ngòi nổ. Một ngòi nổ chậm. Có một quả bom nữa! Ra khỏi đó ngay! Hắn để ngỏ cánh cửa tủ để dụ chúng ta vào bên trong.”
“Sao cơ?”
“Đó là một cái ngòi nổ! Hắn đã gài lại một quả bom! Các cô chỉ còn vài giây nữa thôi. Ra ngay! Chạy!”
“Tôi có thể gỡ đoạn băng dính. Trên miệng cô ấy.”
“Biến khỏi đó ngay!”
“Tôi có thể gỡ nó ra…”
Rhyme nghe thấy một tiếng sột soạt, rồi một tiếng thở hổn hển khe khẽ và vài giây sau, âm thanh chát chúa của vụ nổ, giống như tiếng búa tạ đập vào nồi hơi.
Làm tai anh ù đặc.
“Không”, anh gào lên. “Ôi, không!”
Anh liếc nhìn Sellitto, viên thám tử cũng đang trợn mắt nhìn thẳng vào khuôn mặt khiếp đảm của Rhyme. “Chuyện gì vậy? Chuyện gì thế?” Viên thám tử hỏi gấp gáp.
Một lát sau, qua tai nghe của mình, Rhyme có thể nghe thấy giọng một người đàn ông, run rẩy và hoảng loạn, hét lên, “Có một vụ nổ. Trên tầng hai. Các mảng tường đã bay mất. Chúng đổ sụp xuống rồi… Có người bị thương… Ôi, Chúa ơi. Chuyện gì đã xảy ra với cô ấy? Nhìn máu me kìa. Bao nhiêu là máu! Chúng tôi cần giúp đỡ. Tầng hai! Tầng hai!...”.
Stephen Kall đi một vòng quanh Đồn Cảnh sát Hai mươi trên khu vực Upper West Side.
Tòa nhà đồn cảnh sát cách không xa Công viên Trung tâm và hắn thấp thoáng nhìn thấy những rặng cây.
Con phố nơi đặt tòa nhà trụ sở đồn cảnh sát đã được canh phòng, nhưng công tác an ninh ở đây cũng không quá ngặt nghèo. Có ba cảnh sát đứng trước tòa nhà thấp tẹt, căng thẳng quan sát xung quanh. Nhưng chái phía đông tòa nhà thì hoàn toàn không thấy ai, những cửa sổ quay ra phía này đều được che bằng những tấm thép dày bên ngoài. Hắn đoán đây chính là khu phòng giam.
Stephen tiếp tục đi quanh góc phố rồi rảo bước về phía nam sang con phố tiếp theo. Không có những hàng rào răng cưa màu xanh được dựng lên để phong tỏa con phố này, nhưng lại có người canh gác – thêm hai cảnh sát nữa. Họ cảnh giác dõi theo từng chiếc xe và từng khách bộ hành đi qua. Hắn quan sát tòa nhà thật nhanh và tiếp tục đi về phía nam qua một khối nữa rồi vòng về phía tây của trụ sở đồn cảnh sát. Hắn lén vào một con hẻm vắng hoe, rút cặp ống nhòm từ trong ba lô ra, chăm chú theo dõi đồn cảnh sát.
Anh có thể sử dụngcái này chứ, quân nhân?
Thưa ngài, tôi có thể, thưa ngài.
Trong một bãi đỗ xe, bên cạnh đồn cảnh sát là một trạm xăng. Một sĩ quan đang đổ xăng cho chiếc xe tuần tra của mình. Trước đó Stephen chưa hề nhận ra rằng xe của cảnh sát không bao giờ đổ xăng tại các trạm bán xăng của Amoco hay Shell.
Suốt hồi lâu, hắn chăm chú quan sát trạm xăng qua chiếc ống nhòm Leica nhỏ xíu nhưng nặng trịch của mình, rồi cất nó vào trong bao lô, vội rảo bước về phía tây và, như mọi khi, biết rõ những người trên phố đang nhìn theo hắn.
Ron. Tôi, Percey đây. Mọi người sao rồi?”
“Sợ hãi”, ông ta trả lời. “Tôi cho Sally về rồi. Bà ấy không thể…”
“Bà ấy làm sao cơ?”
“Chỉ là quá sợ hãi trước những gì vừa xảy ra. Cả Carol. Và Lauren nữa. Lauren hoàn toàn mất khả năng kiểm soát rồi. Tôi chưa bao giờ thấy ai suy sụp đến mức ấy. Cô và Brit thế nào?”
“Brit gần như phát điên. Cả tôi cũng thế. Thật là một mớ hỗn loạn tồi tệ. Ôi, Ron…
“Thế còn thám tử kia, tay cảnh sát trẻ bị bắn ấy?”
“Tôi không nghĩ là lúc này họ đã biết chắc chắn điều gì. Thế chiếc Foxtrot Bravo sao rồi?”
“Cũng không đến nỗi quá tệ. Tôi vừa thay xong cửa sổ buồng lái. May mà bình nhiên liệu không bị thủng. Động cơ số hai… đó cũng là một vấn đề. Chúng ta phải cho thay khá nhiều phần vỏ ngoài. Chúng tôi đang cố tìm một bình cứu hỏa mới. Tôi không nghĩ đó là một vấn đề quá lớn…”
“Nhưng sẽ phải thay vòng xuyến annular[63].”
“Buồng đốt sao? Thay thế? Ôi, lạy Chúa.”
“Tôi đã gọi điện cho nhà phân phối Garrett ở Connecticut rồi. Họ đồng ý ngày mai sẽ cho chuyển buồng đốt mới đến, cho dù mai là Chủ nhật. Tôi có thể lắp nó trong vòng khoảng hai, ba tiếng.”
“Chết tiệt”, cô lẩm bẩm, “tôi phải đến đó… tôi hứa với họ là tôi sẽ ở yên đây nhưng, quỷ tha ma bắt nó đi, tôi phải đến đó”.
“Cô đang ở đâu vậy, Percey?”
Và Stephen Kall, lúc này đang ngồi trong căn hộ tối tăm của Sheila Horowitz và căng tai lắng nghe cuộc trò chuyện này, sẵn sàng giấy bút để ghi. Hắn áp sát điện thoại vào tai mình.
Nhưng Người vợ chỉ nói, “Ở Manhattan. Có khoảng một nghìn cảnh sát xung quanh chúng tôi. Tôi cảm thấy như thể mình là Giáo hoàng hay Tổng thống vậy”.
Stephen đã nghe được những thông báo trên làn sóng bộ đàm của cảnh sát về một số hoạt động đáng ngờ diễn ra quanh Đồn Cảnh sát Hai mươi, thuộc khu Upper West Side. Trụ sở đồn cảnh sát đang được phong tỏa còn những đối tượng bị tạm giam cũng đang được chuyển đi nơi khác. Hắn phân vân không biết liệu đó có phải là nơi Người vợ đang ẩn náu lúc này không – ngay trong đồn cảnh sát.
Ron hỏi, “Liệu họ có ngăn chặn được tên đó không? Họ đã có manh mối gì chưa?”
Đúng, chúng đã biết gì chưa? Stephen băn khoăn.
“Tôi không biết”, cô trả lời.
“Nhưng phát súng lúc nãy”, Ron nói. “Lạy Chúa, chúng thật đáng sợ. Làm tôi nhớ đến hồi còn tại ngũ. Cô biết đấy, tiếng súng nổ.”
Stephen lại băn khoăn về tay Ron này. Liệu ông ta có thể giúp ích được gì không nhỉ?
Xâm nhập, đánh giá…tra hỏi.
Stephen cân nhắc việc theo dõi rồi tra tấn người đàn ông này để bắt ông ta gọi lại cho Percey và hỏi địa chỉ ngôi nhà an toàn…
Nhưng ngay cả khi hắn có lọt qua được hàng rào an ninh ở sân bay đi nữa thì đó vẫn là một trò mạo hiểm. Và lại mất rất nhiều thời gian.
Trong lúc chăm chú lắng nghe cuộc trò chuyện của họ trên điện thoại, Stephen dán mắt vào màn hình chiếc laptop mở trước mặt. Một tin nhắn hiển thị, Xin vui lòng chờ, vẫn đang nhấp nháy. Thiết bị nghe trộm điều khiển từ xa được gắn với một hộp rờ le tiếp âm của công ty NYNEX gần sân bay và vẫn liên tục chuyển những cuộc nói chuyện từ đường dây này tới máy ghi âm của Stephen cả tuần nay. Kể ra hắn cũng ngạc nhiên là cảnh sát chưa phát hiện ra nó.
Một con mèo – Esmeralda, Essie, con giòi – trèo lên mặt bàn và uốn cong lưng. Stephen có thể nghe rõ tiếng gừ gừ đầy khó chịu của nó.
Hắn bắt đầu cảm thấy nhớp nháp.
Hắn giật mạnh cùi chỏ một cách thô bạo, hất tung con mèo xuống sàn nhà và khoái trá nghe tiếng con vật gào lên thảm thiết.
“Tôi vẫn tìm kiếm thêm các phi công”, Ron nói, không giấu được vẻ khó chịu. “Tôi phải…”
“Chúng ta chỉ cần một người. Phi công phụ cho chiếc ghế bên phải.”
Một thoáng im lặng. “Gì cơ?” Ron hỏi.
“Tôi sẽ phụ trách chuyến bay ngày mai. Tất cả những gì tôi cần là một phi công có chứng chỉ.”
"Cô ư? Tôi không cho đó là một ý tưởng hay đâu, Perce.”
“Thế anh còn người nào không?” Cô hỏi cụt lủn.
“Hừm, vấn đề là…”
“Anh còn người nào không?”
“Brad Torgeson cũng có trong danh sách gọi. Anh ta bảo không hề e ngại gì việc giúp đỡ chúng ta. Anh ta hiểu tình hình hiện nay.”
“Tốt lắm. Một phi công can đảm. Số giờ bay với loại Lear của anh ta thế nào?”
“Cũng nhiều… Percey, tôi tưởng cô sẽ phải nằm yên đến khi bồi thẩm đoàn triệu tập.”
“Lincoln đồng ý để tôi thực hiện chuyến bay ngày mai. Nếu tôi ở yên đây đến lúc đó.”
“Lincoln là ai?”
Đúng, Stephen thầm nghĩ, Lincoln là ai?
“À, anh ta là một người kỳ quặc…” Người vợ ngần ngừ, như thể cô ta muốn nói về tên Lincoln kia nhưng không biết phải nói gì. Stephen thất vọng khi cô ta chỉ nói, “Anh ta đang hợp tác với cảnh sát, cố truy lùng tên giết người. Tôi bảo anh ta tôi sẽ ở yên đây đến ngày mai, nhưng kiểu gì tôi cũng phải thực hiện bằng được chuyến bay. Anh ta đồng ý.”
“Percey, chúng ta có thể hoãn chuyến bay lại mà. Tôi sẽ nói với bên U.S. Medical. Họ biết chúng ta đang gặp một số…”
“Không”, cô nói dứt khoát. “Họ không muốn nghe những lời thanh minh nữa đâu. Họ muốn hàng được chuyển đến nơi theo đúng lịch trình. Và nếu chúng ta không làm được họ sẽ tìm người khác. Khi nào thì họ đưa hàng đến?”
“Khoảng sáu, bảy giờ tối gì đấy.”
“Tôi sẽ có mặt ở đó lúc cuối giờ chiều. Tôi sẽ giúp anh thay buồng đốt.”
“Percey”, ông ta thở khò khè. “Mọi chuyện rồi sẽ ổn cả thôi.”
“Chúng ta sẽ sửa xong động cơ. Mọi chuyện sẽ tốt đẹp.”
“Chắc lúc này cô đang đau khổ lắm”, Ron nói.
“Cũng không hẳn”, cô nói.
Chưa thôi, Stephen thầm sửa lại.
Chú thích
[63]Vòng xuyến annular: Buồng đốt dạng annular gồm hai vành, phần ở giữa hai vành là buồng đốt. Hiệu suất/ thể tích đốt là rất lớn bởi trộn được tối ưu hóa, tận dụng tốt luồng khí đi vào làm mát cho buồng đốt và giảm nhiệt độ dòng khí sau khi ra khỏi buồng đốt. Buồng đốt dạng annular thường được lắp cho các động cơ công suất lớn.
Sachs bẻ quặt tay lái cho chiếc Wagon RRV lao vào góc phố với tốc độ 40 dặm một giờ. Cô nhận ra có đến một tá đặc vụ tác chiến đang đi tuần trên phố.
Các đội của Fred Dellray đang bao vây tòa nhà nơi Sheila Horowitz sống. Một tòa nhà xây bằng đá hộc đặc trưng của khu Upper West Side, bên cạnh một cửa hàng bán đồ ăn Hàn Quốc, phía trước cửa có một người làm công đang ngồi phệt trên thùng đựng sữa chăm chút gọt cà rốt cho món sa lát và hờ hững nhìn những đặc vụ cả nam lẫn nữ tay lăm lăm súng tiểu liên đang bao vây tòa nhà.
Sachs tìm thấy Dellray, vũ khí đã rút khỏi bao, trong gian sảnh lớn, anh đang kiểm tra danh sách những người sống trong tòa nhà.
S.Horowitz. 204.
Anh nói vào máy bộ đàm của mình. “Chúng ta đang ở 480,34.”
Đó là tần số riêng dành cho tác chiến cấp độ chiến thuật của lực lượng liên bang. Sachs điều chỉnh lại tần số trên máy bộ đàm của mình trong khi Dellray nhòm vào thùng thư của cô nàng Horowitz với một chiếc đèn pin nhỏ màu đen. “Hôm nay cô ta chưa hề lấy thứ gì. Có cảm giác là cô gái này không còn nữa.” Rồi anh nói, “Chúng ta đã bố trí người đứng phục ở cầu thang cứu hỏa cả tầng trên rồi tầng dưới với camera theo dõi và cả máy thu tín hiệu âm thanh. Chưa phát hiện được ai trong nhà. Nhưng chúng ta đang thu được một số tiếng cào và gừ gừ. Dù không có âm thanh gì của con người. Cô ta nuôi mèo, nhớ chứ. Anh ấy quả là cự phách, nghĩ ngay đến những bác sĩ thú y. Tôi đang muốn nói đến anh chàng Rhyme của chúng ta ấy mà”.
Tôi biết anh định nói đến ai, cô thầm nghĩ.
Ngoài trời, gió đang gào rú và một dải mây đen kịt đang che phủ lấy thành phố. Những đám mây cũng tầng tầng lớp lớp tím bầm.
Dellray quát khẽ vào máy bộ đàm. “Tất cả các đội. Báo cáo tình hình?”
“Đội Đỏ. Chúng tôi đang ở cầu thang cứu hỏa.”
“Đội Xanh. Tầng hai.”
“Đã rõ”, Dellray làu bàu. “S&S[64]. Báo cáo đi.”
“Vẫn chưa có gì chắc chắn. Chúng tôi thu được tín hiệu hồng ngoại rất yếu. Ai hoặc cái gì trong đó vẫn nằm yên bất động. Có thể là một con mèo đang ngủ. Hoặc là một nạn nhân bị thương. Hoặc có thể là một bóng đèn hiệu hay một chiếc đèn bật sẵn từ lâu. Mặc dù vậy cũng có thể đó chính là đối tượng. Ở sâu hẳn phía trong căn hộ.”
“Xin hỏi, vậy các anh nghĩ thế nào?”, Sachs lên tiếng.
“Ai đấy?”, tay đặc vụ hỏi lại qua sóng bộ đàm.
“NYPD. Số 5885”, Sachs trả lời bằng cách đọc số phù hiệu của mình. “Tôi muốn biết ý kiến của anh. Anh có nghĩ rằng đối tượng đang ở bên trong không?”
“Tại sao cô lại hỏi vậy?”, Dellray muốn biết.
“Tôi muốn có một hiện trường còn nguyên vẹn. Tôi muốn được vào đó một mình nếu họ cho rằng hắn không còn bên trong.” Một lối vào được mở bằng thuốc nổ với cả tá sĩ quan đặc nhiệm chiến thuật có lẽ là cách hiệu quả nhất để phá hủy hoàn toàn một hiện trường vụ án.
Dellray chằm chằm nhìn cô trong giây lát, khuôn mặt đen bóng của anh càng tối sầm hơn, rồi anh nói vào mic, “Quan điểm của các anh thế nào, S&S?”.
“Chúng tôi chưa thể chắc chắn được, thưa sếp”, tay đặc vụ có giọng khàn khàn quái gở trả lời.
“Biết là các cậu không thể rồi, Billy. Chỉ là hãy nói những gì bản năng mách bảo cậu thôi.”
Một khoảng im lặng, và rồi, “Tôi nghĩ hắn đã cao chạy xa bay. Tôi nghĩ bên trong không còn ai.”
“Được rồi”. Anh quay sang Sachs và nói, “Nhưng cô phải để một sĩ quan khác đi cùng. Đó là mệnh lệnh đấy”.
“Nếu thế thì tôi vẫn phải vào trước. Anh ta có thể yểm trợ cho tôi từ cửa ra vào. Anh hãy nhớ, tên này chưa hề để lại dấu vết ở bất kỳ đâu. Chúng ta cần phải thử mọi cơ may thôi.”
“Được rồi, sĩ quan.” Dellray gất đầu với mấy đặc vụ SWAT liên bang. “Đồng ý cho vào”, anh làu bàu khi phải từ bỏ kiểu ngôn ngữ đường phố của mình để ra lệnh.
Một trong số những đặc vụ chiến thuật vô hiệu hóa cánh cửa ở hành lang trong vỏn vẹn có ba mươi giây.
“Khoan đã”, Dellray nói, rồi hất đầu về một bên. “Có một cuộc gọi từ Trung tâm.” Anh nói vào bộ đàm, “Cung cấp cho họ tần số đi”. Anh quay sang nhìn Sachs, “Lincoln gọi cho cô này”.
Một lát sau giọng nhà hình sự học vang lên. “Sachs”, anh nói, “cô đang làm gì vậy?”.
“Tôi chỉ định…”
“Nghe này”, anh vội cắt ngang “Không được vào trong một mình. Để họ phong tỏa an toàn hiện trường an toàn trước đã. Cô biết quy định rồi.”
“Tôi đã có người yểm trợ…”
“Không, hãy để SWAT phong tỏa hiện trường trước đã.”
“Họ chắc chắn hắn không còn trong đó”, cô nói dối.
“Ngần ấy cũng chưa đủ đâu”, anh vặc lại. “Nhất là với tên Vũ công. Không ai có thể nói chắc chắn bất cứ điều gì về hắn.”
Lại nữa rồi. Tôi đâu cần điều đó, Rhyme. Cô cáu kỉnh nói, “Đây là kiểu hiện trường mà hắn không nghĩ rằng chúng ta sẽ tìm ra. Thậm chí có khi hắn còn chưa lo xóa dấu vết cũng nên. Chúng ta có thể tìm thấy một dấu vân tay, một vỏ đạn nào đó. Mẹ kiếp, biết đâu còn tìm thấy thẻ tín dụng của hắn nữa ấy chứ.”
Không thấy có phản ứng gì. Hiếm khi có chuyện Rhyme lại bị ai đó làm cho cứng họng như thế này.
“Đừng có hăm dọa tôi nữa, Rhyme. Được không?”
Anh vẫn không trả lời và cô chợt có cảm giác lạ lùng rằng anh muốn cô cảm thấy bị hăm dọa. “Sachs…?”
“Sao cơ?”
“Hãy thật cẩn thận nhé” là lời khuyên duy nhất của anh, và những từ đó cũng chỉ được thốt ra rất ngập ngừng.
Rồi đột nhiên năm đặc vụ chiến thuật xuất hiện, tất cả đều đeo găng tay Nomex và có mũ trùm đầu, mặc áo giáp chống đạn màu xanh, tay lăm lăm vũ khí.
“Tôi sẽ gọi cho anh từ bên trong căn hộ”, cô nói.
Cô bắt đầu bước lên cầu thang theo sau họ, tâm trí chủ yếu tập trung vào chiếc va ly đựng đồ nghề nặng trình trịch mà cô đang xách trên cánh tay yếu của mình, tay trái, hơn là vào khẩu súng đen sì cô cầm bên tay phải.
Chú thích
[64]S&S (viết tắt của Search and Surveillance): Đội Tìm kiếm và Giám sát.
Những ngày xưa ấy, tức là những ngày trước kia, Lincoln Rhyme từng là một người thích đi bộ.
Có điều gì đó ở kiểu vận động này giúp anh thấy thư thái hơn. Một cuộc tản bộ qua Công viên Trung tâm hoặc Công viên Quảng trường Washington, hoặc bước hối hả qua Fashsion District. À mà thực ra hồi đó cứ chốc chốc anh lại dừng lại – có thể là để nhặt một mẩu bắng chứng nào đó cho cơ sở dữ liệu của phòng thí nghiệm IRD – nhưng một khi những mẩu đất hoặc cây cối hay mẫu các loại vật liệu xây dựng đã được cất giữ an toàn và nguồn gốc của chúng đã được Rhyme ghi lại cẩn thận trong sổ tay, anh sẽ lại tiếp tục con đường của mình. Cứ thế anh rảo bước hàng dặm, hàng dặm đường.
Một trong những điều bực mình nhất liên quan đến tình trạng hiện nay của anh chính là sự bất lực trong việc giải tỏa căng thẳng. Giờ đây anh chỉ có thể nhắm nghiền mắt, tì mạnh gáy lên giá đỡ của chiếc xe lăn Storm Arrow và nghiến răng ken két.
Anh bảo Thom lấy cho mình một chút whiskey.
“Chẳng phải là anh đang cần giữ cho đầu óc thư thái sao?”
“Không.”
“Tôi nghĩ là anh cần đấy.”
Quỷ tha ma bắt cậu đi, Rhyme thầm rủa, và càng nghiến răng mạnh hơn. Thom sẽ phải lau sạch hai hàm lợi bầm máu, sẽ phải bố trí mời nha sĩ đến. Và mình cũng sẽ hành hạ hắn bằng chết thì thôi.
Tiếng sấm vang rền từ xa xa vẳng lại và ánh sáng nhạt dần.
Anh hình dung Sachs đang đi phía trước đội đặc vụ chiến thuật. Cô nói đúng, tất nhiên: Một đội ESU phong tỏa toàn bộ căn hộ chắc chắn sẽ làm hỏng hết hiện trường. Dù vậy anh vẫn lo lắng cho cô đến phát ốm. Từ trước đến giờ lần nào cô cũng liều lĩnh quá mức. Anh đã nhìn thấy cô cào rách da đầu của mình, hết nhíu mày rồi lại gặm móng tay. Vốn là người không bao giờ đếm xỉa gì đến những trò mèo của các nhà tâm lý học, nhưng chỉ cần nhìn qua Rhyme cũng có thể nhận ra ngay đâu là những hành vi tự hủy hoại mình. Anh cũng đã từng ngồi cùng xe với Sachs – trong chiếc xe thể thao đã chế lại động cơ của cô. Họ đã từng lao đi với tốc độ 150 dặm một giờ và dường như cô vẫn còn lấy làm bực bội vì những con đường ngoằn ngoèo trên Long Island không cho phép cô đạt tốc độ gấp đôi con số đó.
Anh giật nẩy mình khi nghe giọng nói thì thầm của cô. “Rhyme, anh còn ở đó không?”
“Cứ nói đi, Amelia.”
Một thoáng ngập ngừng. “Đừng gọi bằng tên, Rhyme. Là điềm gở đấy.”
Anh cố gắng cười phá lên. Thầm ước giá như anh không gọi tên cô, tự hỏi không biết tại sao anh lại gọi thế.
“Nói tiếp đi.”
“Tôi đang ở cửa trước. Họ đang chuẩn bị phá sập cửa bằng rầm gỗ. Một đội khác cũng vừa báo cáo thêm. Họ thực sự không cho rằng hắn còn ở bên trong.”
“Cô đang mặc áo giáp đấy chứ?”
“Tôi xoay sở được một chiếc áo chống đạn của tay đặc vụ FBI nào đó. Trông như kiểu tôi đang mang những hộp ngũ cốc màu đen thay cho áo nịt ngực vậy.”
“Đếm đến ba”, Rhyme nghe thấy giọng của Dellray, “tất cả các đội, phá tung cửa chính và cửa sổ, phong tỏa mọi khu vực trong nhà, nhưng đứng tránh xa lối vào. Một…”.
Rhyme hoàn toàn rối bời. Anh khao khát muốn tóm được tên Vũ công biết bao – anh có thể cảm nhận rõ niềm khao khát đó. Nhưng, trời ơi, anh cũng thấy sợ hãi khủng khiếp cho cô.
“Hai…”
Sachs, mẹ kiếp, anh thầm nghĩ. Tôi không muốn cứ lo lắng về cô thế này…
“Ba…”
Anh nghe thấy một tiếng rắc khe khẽ, như một cậu thiếu niên bứt rứt bẻ đốt ngón tay, và chợt nhận ra mình đang cố chồm người về phía trước. Cổ anh run lên với một cơn co rút dữ dội , anh giật nẩy về sau. Thom xuất hiện và bắt đầu massage nó.
“Không sao đâu”, anh càu nhàu. “Cảm ơn cậu. Cậu có thể chỉ lau mồ hôi thôi được không? Làm ơn.”
Thom nhìn anh với ánh mắt nghi ngờ – vì từ “làm ơn” sau cùng – rồi lau trán cho ông chủ của mình.
Cô đang làm gì vậy, Sachs?
Anh rất muốn hỏi nhưng lại không muốn làm cô phân tâm ngay lúc này.
Rồi anh nghe thấy một tiếng thở hổn hển. Tóc sau gáy anh dựng đứng cả lên. “Lạy Chúa, Rhyme.”
“Gì thế? Hãy nói đi.”
“Người phụ nữ… người phụ nữ tên là Horowitz ấy. Cánh cửa tủ lạnh để mở. Cô ta ở bên trong. Cô ta chết rồi nhưng trông như… Ôi, lạy Chúa, mắt cô ta.”
“Sachs…”
“Dường như hắn nhét cô ta vào bên trong khi cô ta vẫn còn sống. Vì lý do quái quỷ gì mà hắn lại…”
“Hãy cố nghĩ xem, Sachs. Cố lên. Cô làm được mà.”
“Chúa ơi.”
Rhyme biết Sachs đang hoảng sợ. Anh hình dung ra nỗi khiếp đảm mà cô đang phải trải qua khi chứng kiến cái chết khủng khiếp của người phụ nữ kia.
“Hắn có trói hay dán băng dính lên người cô ta không?”.
“Có băng dính. Một loại băng dính gói đồ trong suốt dán lên miệng cô ấy thì phải. Mắt cô ấy, Rhyme, mắt cô ấy…”
“Đừng có xúc động quá, Sachs. Đoạn băng dính đó có thể là bề mặt lý tưởng để lưu lại dấu vân tay. Bề mặt sàn nhà trông thế nào?”
“Trải thảm trong phòng khách. Còn trong bếp là vải sơn trải sàn. Và…” Một tiếng thét thất thanh. “Ôi, Chúa ơi!”
“Gì thế?”
“Chỉ là một con mèo thôi. Nó nhảy ngay trước mặt tôi. Chết tiệt thật… Rhyme?”
“Sao cơ?”
“Tôi ngửi thấy mùi gì đó. Rất buồn cười.”
“Tốt lắm.” Anh đã dạy cô lúc nào cũng phải hít ngửi không khí tại một hiện trường vụ án. Đó là hành động đầu tiên mà chuyên gia khám nghiệm hiện trường cần ghi nhớ.
Nhưng “buồn cười” là thế nào nhỉ?
“Một mùi chua chua. Hóa chất thì phải. Không sao xác định chính xác được.”
“Sachs”, anh hỏi bất thình lình.
“Chính cô đã mở cánh cửa tủ lạnh à?”
“Không, tôi vào đã thấy nó như thế rồi. Hình như cánh cửa tủ lạnh được để mở với một chiếc ghế chèn vào.”
Tại sao? Rhyme tự hói. Tại sao hắn lại làm thế? Anh điên cuồng nghĩ.
“Cái mùi đó, mỗi lúc một nồng nặc hơn. Khen khét.”
Người phụ nữ kia là trò đánh lạc hướng! Bất thình lình Rhyme nghĩ ra. Hắn để ngỏ cửa cánh để bảo đảm khi đội phá cửa xông vào sẽ để ý đến nó!
Ôi, không, không thể một lần nữa!
“Sachs! Cô đang ngửi thấy mùi ngòi nổ. Một ngòi nổ chậm. Có một quả bom nữa! Ra khỏi đó ngay! Hắn để ngỏ cánh cửa tủ để dụ chúng ta vào bên trong.”
“Sao cơ?”
“Đó là một cái ngòi nổ! Hắn đã gài lại một quả bom! Các cô chỉ còn vài giây nữa thôi. Ra ngay! Chạy!”
“Tôi có thể gỡ đoạn băng dính. Trên miệng cô ấy.”
“Biến khỏi đó ngay!”
“Tôi có thể gỡ nó ra…”
Rhyme nghe thấy một tiếng sột soạt, rồi một tiếng thở hổn hển khe khẽ và vài giây sau, âm thanh chát chúa của vụ nổ, giống như tiếng búa tạ đập vào nồi hơi.
Làm tai anh ù đặc.
“Không”, anh gào lên. “Ôi, không!”
Anh liếc nhìn Sellitto, viên thám tử cũng đang trợn mắt nhìn thẳng vào khuôn mặt khiếp đảm của Rhyme. “Chuyện gì vậy? Chuyện gì thế?” Viên thám tử hỏi gấp gáp.
Một lát sau, qua tai nghe của mình, Rhyme có thể nghe thấy giọng một người đàn ông, run rẩy và hoảng loạn, hét lên, “Có một vụ nổ. Trên tầng hai. Các mảng tường đã bay mất. Chúng đổ sụp xuống rồi… Có người bị thương… Ôi, Chúa ơi. Chuyện gì đã xảy ra với cô ấy? Nhìn máu me kìa. Bao nhiêu là máu! Chúng tôi cần giúp đỡ. Tầng hai! Tầng hai!...”.
Stephen Kall đi một vòng quanh Đồn Cảnh sát Hai mươi trên khu vực Upper West Side.
Tòa nhà đồn cảnh sát cách không xa Công viên Trung tâm và hắn thấp thoáng nhìn thấy những rặng cây.
Con phố nơi đặt tòa nhà trụ sở đồn cảnh sát đã được canh phòng, nhưng công tác an ninh ở đây cũng không quá ngặt nghèo. Có ba cảnh sát đứng trước tòa nhà thấp tẹt, căng thẳng quan sát xung quanh. Nhưng chái phía đông tòa nhà thì hoàn toàn không thấy ai, những cửa sổ quay ra phía này đều được che bằng những tấm thép dày bên ngoài. Hắn đoán đây chính là khu phòng giam.
Stephen tiếp tục đi quanh góc phố rồi rảo bước về phía nam sang con phố tiếp theo. Không có những hàng rào răng cưa màu xanh được dựng lên để phong tỏa con phố này, nhưng lại có người canh gác – thêm hai cảnh sát nữa. Họ cảnh giác dõi theo từng chiếc xe và từng khách bộ hành đi qua. Hắn quan sát tòa nhà thật nhanh và tiếp tục đi về phía nam qua một khối nữa rồi vòng về phía tây của trụ sở đồn cảnh sát. Hắn lén vào một con hẻm vắng hoe, rút cặp ống nhòm từ trong ba lô ra, chăm chú theo dõi đồn cảnh sát.
Anh có thể sử dụngcái này chứ, quân nhân?
Thưa ngài, tôi có thể, thưa ngài.
Trong một bãi đỗ xe, bên cạnh đồn cảnh sát là một trạm xăng. Một sĩ quan đang đổ xăng cho chiếc xe tuần tra của mình. Trước đó Stephen chưa hề nhận ra rằng xe của cảnh sát không bao giờ đổ xăng tại các trạm bán xăng của Amoco hay Shell.
Suốt hồi lâu, hắn chăm chú quan sát trạm xăng qua chiếc ống nhòm Leica nhỏ xíu nhưng nặng trịch của mình, rồi cất nó vào trong bao lô, vội rảo bước về phía tây và, như mọi khi, biết rõ những người trên phố đang nhìn theo hắn.