Chương : 20
Giờ thứ 23 của 45
"Chó chết.Chó chết!”, Rhyme gầm lên, nước bọt vãi tung tóe trên cằm anh.
Thom bước lại bên chiếc ghế định lau cằm cho anh, nhưng Rhyme giận dữ lắc đầu xua anh ta đi.
“Bo?”, anh gọi to vào mic của mình.
“Nói đi”, Haumann trả lời từ chiếc xe thùng chỉ huy.
“Tôi nghĩ bằng cách nào đó hắn đã phát hiện ra chúng ta và đang tìm cách thoát ra ngoài. Ra lệnh cho các nhân viên của anh tổ thức thành những nhóm phòng ngự. Tôi không muốn bất kỳ ai đi riêng lẻ. Đưa tất cả mọi người vào tòa nhà. Tôi nghĩ…”
“Chờ máy đã… Chờ máy đã. Ôi, không…”
“Bo? Sachs?… Có ai không?”
Nhưng không có ai trả lời.
Rhyme nghe thấy những tiếng quát tháo trên sóng radio. Sóng liên lạc bị cắt đứt. Và rồi lệnh cấp báo dồn dập vang lên: “… yểm trợ. Chúng tôi phát hiện có vết máu. Trong tòa nhà văn phòng. Vâng, vâng… không… dưới tầng… Trong tầng hầm. Không thấy Innelman báo cáo gì. Anh ấy… ở dưới tầng hầm. Tất cả các đơn vị cơ động, cơ động. Khẩn trương lên, cơ động!…”.
Rhyme hét lên, “Bell, anh có nghe tôi nói không? Tăng gấp đôi số người bảo vệ bên cạnh nhân chứng. Không được, tôi xin nhắc lại, tuyệt đối không được để họ trong tình trạng không có người bên cạnh. Tên Vũ công đã thoát và chúng tôi không biết hắn đang ở đâu”.
Giọng nói bình tĩnh của Roland Bell vang len trên đường dây. “Vẫn đang che chắn họ rất chu đáo. Không có ai lọt vào đây được đâu.”
Một khoảng chờ đợi thật căng thẳng. Không thể nào chụi nổi. Rhyme chỉ muốn gào lên vì phẩn uất.
Hắn đang ở đâu chứ?
Con rắn độc trong một căn phòng tối…
Rồi lần lượt từng cảnh sát vũ trang và đặc vụ liên bang lên tiếng, báo cáo với Haumann và Dellray rằng họ đã phong tỏa từng tầng, từng tầng một.
Cuối cùng, Rhyme nghe thấy: “Tầng hầm đã được phong tỏa. Nhưng lạy Chúa, dưới này có rất nhiều máu. Và Innelman đã mất tích. Chúng tôi không tìm thấy anh ấy! Lạy Chúa, không biết bao nhiêu là máu!”.
“Rhyme, anh có nghe thấy tôi nói không?”
“Được rồi.”
“Tôi đang ở dưới tầng hầm tòa nhà văn phòng”, Amelia Sachs nói vào cần mic máy bộ đàm của mình, không ngừng quan sát xung quanh.
Những bức tường bê tông màu vàng ệch bẩn thỉu, sàn nhà phủ một màu xám xịt như vỏ tàu chiến. Nhưng có lẽ không một ai để tâm đến kiểu bài trí của cái nơi u ám này; máu chảy lênh láng khắp nơi, như một bức tranh kinh dị của Jackson Pollock[83].
Người đặc vụ đáng thương, cô thầm nghĩ. Innelman. Tốt nhất là phải tìm thấy anh ta thật nhanh. Bất kỳ ai mất nhiều máu đến mức này cũng không thể chịu đựng được quá mười lăm phút.
“Cô cầm sẵn hộp dụng cụ đấy chứ?”, Rhyem hỏi cô.
“Chúng ta không có thời gian đâu! Cơ man nào là máu, chúng ta phải tìm thấy anh ấy đã!”
“Bình tĩnh đi, Sachs. Hộp dụng cụ. Mở hộp dụng cụ ra.”
Cô thở dài. “Được rồi! Tôi làm đây.”
Hộp dụng cụ phát hiện dấu máu tại hiện trường vụ án gồm một chiếc thước kẻ, thước đo góc gắn kèm một sợi dây, thước dây, bộ test Kastle-Meyer Reagent dùng để kiểm tra nhanh tại hiện trường. Cả chất Luminol – có tác dụng phát hiện dư chất sắt oxide có trong máu ngay cả khi hung thủ đã chùi rửa sạch tất cả những dấu vết khác.
“Tất cả là một mớ hỗn độn, Rhyme ạ”, cô thì thào. “Chắc tôi sẽ không thể phát hiện được gì đâu.”
“Ôi, hiện trường sẽ cho chúng ta biết nhiều hơn những gì cô tưởng đấy, Sachs. Nó sẽ cho chúng ta biết rất nhiều.”
Hừm, nếu như có người có thể giải mã được khung cảnh kinh hoàng này thì đó hẳn phải là Rhyme; Sachs biết rằng Rhyme và Cooper là thành viên kỳ cựu của Hiệp hội Quốc tế những nhà phân tích vết máu. (Cô cũng không biết điều gì là khó chịu hơn nữa – những vết máu lênh láng tại hiện trường các vụ án hay thực tế là có một nhóm chuyên nghiên cứu về chủ đề này.) Nhưng lần này dường như không có cơ sở gì để hy vọng cả.
“Chúng ta phải tìm được anh ấy đã…”
“Sachs, bình tĩnh đi… Cô vẫn nghe tôi nói đấy chứ?”
Sau một hồi im lặng kéo dài cô nói, “Được rồi”.
“Tất cả những gì cô cần lúc này là cái thước kẻ”, anh nói. “Bắt đầu nhé, hãy tả cho tôi nghe những gì cô thấy.”
“Có vết máu loang lổ khắp nơi dưới này.”
“Vết máu bắn ra nói lên rất nhiều điều. Nhưng nó cũng trở nên vô nghĩa trừ phi bề mặt máu dây vào đồng nhất và bằng phẳng. Sàn nhà ở đó thế nào?”
“Xi măng láng mịn.”
“Tốt rồi. Những vết máu có to không? Hãy đo đi.”
“Anh ấy sắp chết rồi. Rhyme.”
“To đến mức nào?” Anh gắt lên.
“Tất cả đều có kích thước khác nhau. Có đến hàng trăm vết với kích cỡ 3/4 inch. Một số vết lớn hơn. Khoảng hơn một inch gì đó. Hàng nghìn vết rất nhỏ. Như dấu máu phun ra.”
“Hãy quên những vết nhỏ đi. Chúng là những giọt rơi văng ra, kiểu như vệ tinh của các dấu máu khác. Hãy miêu tả những vết máu lớn nhất đi. Hình dáng?”
“Chủ yếu là hình tròn.”
“Có viền kiểu vỏ sò, đúng không?”
“Đúng”, cô lầm bầm. “Nhưng cũng có những vết máu có viền trơn đều. Ngay trước mặt tôi cũng có mấy vết. Tuy nhiên chúng nhỏ hơn một chút.”
Anh ấy ở đâu nhỉ? Cô tự hỏi. Innelman. Người đàn ông cô chưa bao giờ gặp mặt. Mất tích và máu trào ra như một đài phun nước.
“Sachs?”
“Cái gì?” cô gắt.
“Thế còn những giọt nhỏ hơn thì sao? Hãy miêu tả cho tôi biết đi.”
“Chúng ta không có thời gian cho việc này đâu!”
“Chúng ta không có thời gian để không làm việc này”, anh lạnh lùng nói.
Quỷ tha ma bắt anh đi, Rhyme, cô thầm rủa, rồi nói. “Được rồi”. Cô lúi húi đo. “Mỗi vết có đường kính khoảng nửa inch. Tròn xoe. Không hề có viền răng cưa kiểu vỏ sò...”
“Những vết đó ở đâu?” Anh hỏi dồn dập. “Ở một đầu hành lang, hay ở đầu kia?”
“Chủ yếu là ở giữa. Có một phòng kho ở cuối sảnh lớn. Bên trong đó và gần đó những vết máu lớn hơn và có viền răng cưa hoặc viền vỏ sò. Ở đầu kia của hành lang, vết máu nhỏ hơn.”
“Được rồi, được rồi”, Rhyme lơ đãng đáp lại, rồi anh chợt tuyên bố, “Câu chuyện là như thế này… Tên người đặc vụ đó là gì nhỉ?”.
“Innelman. John Innelman. Anh ấy là một người bạn của Dellray.”
“Tên Vũ công tấn công Innelman trong nhà kho, hắn đâm anh ta một nhát, ở trên cao. Làm anh ta bị tê liệt, có lẽ là vào cổ hoặc cánh tay. Đó là những giọt to, không đều nhau. Sau đó hắn lôi anh ta ra ngoài hành lang rồi đâm nhát nữa, lần này thì thấp hơn. Đó là những vết máu nhỏ và tròn trịa hơn. Khoảng cách mà máu rơi từ vết đâm xuống đất càng ngắn thì viền vết máu càng đều hơn.”
“Tại sao hắn lại làm thế?”
“Để ngăn bước truy lùng của chúng ta. Hắn biết chúng ta sẽ đi tìm một đặc vụ bị thương trước khi bắt đầu săn lùng hắn.”
Anh ấy nói đúng, cô thầm nghĩ, nhưng chúng ta đang tìm kiếm quá chậm chạp!
“Hành lang dài bao nhiêu?”
Cô thở dài, rồi cúi xuống ước lượng. “Khoảng 50 feet. Tầm đó, và toàn bộ hành làng đều lênh láng vết máu.”
“Trong các vũng máu có dấu chân không?”
“Rất nhiều. Chúng tản về đủ các hướng. Đợi chút... Có một hành lang dịch vụ. Lúc đầu tôi không để ý. Vết máu dẫn về phía đó! Chắc chắn anh ấy đang ở trong đó. Chúng ta phải...”
“Không, Sachs, chờ đã. Như thế quá lộ liễu.”
“Chúng ta phải cho phá cửa thang máy ngay. Tôi sẽ gọi cho Sở Cứu hỏa để họ cử người mang dụng cụ phá cửa đến hoặc tốt nhất là chìa khóa thang máy. Họ có thể...”
Rhyme bình tĩnh nói, “Nghe tôi đã. Những vết máu dẫn đến thang máy trông có giống những giọt nước mắt không? Với phần đuôi chỉ về các hướng khác nhau ấy?”.
“Chắc chắn anh ấy phải ở trong thang máy! Có vết máu loang lổ trên cánh cửa. Anh ấy sắp chết rồi, Rhyme! Sao anh không chịu nghe tôi chứ?”
“Những giọt nước mắt, Sachs?” Anh hỏi thật vỗ về. “Trông chúng có giống những con nòng nọc không?”
Cô nhìn xuống. Quả là thế thật. Giống hệt những con nòng nọc với những cái đuôi ngoe nguẩy về nhiều hướng khác nhau.
“Đúng vậy, Rhyme. Giống thật.”
“Lùi lại đến khi những vết máu đó kết thúc.”
Thật điên rồ. Innelman đang mất máu sắp chết trong cầu thang máy. Cô trừng trừng nhìn cách cửa sắt hồi lâu, đã nghĩ đến chuyện mặc xác Rhyme, nhưng rồi cuối cùng cô cũng lùi về phía đầu hành lang.
Tới chỗ những dấu máu dừng hẳn lại.
Chú thích
[83]Jackson Pollock (1912-1954): Họa sĩ nổi tiếng người Mỹ, theo trường phái trừu tượng.
“Đây rồi, Rhyme. Chúng dừng lại ở đây.”
“Ngay cần một chiếc tủ hoặc một cánh cửa, đúng không?”
“Vâng, nhưng làm sao anh lại biết?”
“Và cửa được chốt từ bên ngoài?”
“Chính xác.”
“Hắn làm thế bằng cách quái gì nhỉ?”
“Vậy là đội kiểm tra đã nhìn thấy cái chốt cửa và bỏ qua nó – vì họ nghĩ không đời nào tên Vũ công lại tự nhốt mình bên trong đó. Hừ, Innelman đang ở trong đó đấy. Mở cánh cửa ra, Sachs. Dùng kìm cặp vào tay nắm cửa, đừng chạm vào tay nắm. Vẫn có khả năng chúng ta sẽ lấy được dấu vân tay. Mà này, Sachs?”
“Vâng?”
“Tôi không nghĩ hắn có gài lại bom. Hắn không có đủ thời gian đâu. Nhưng cho dù người đặc vụ có đang bị làm sao chăng nữa, mà tôi tin là sẽ không tốt đâu, hãy tạm thời bỏ qua anh ta trong một phút và trước tiên phải kiểm tra xem có cái bẫy nào không.”
“Được rồi.”
“Cô hứa chứ?”
“Vâng.”
Kìm rút ra trên tay... rút thanh chốt... vặn tay nắm.
Khẩu Glock lăm lăm trên tay. Cảnh giác nghe ngóng. Nào!
Cánh cửa mở toang.
Nhưng không có bom hay bấy kỳ chiếc bẫy nào. Chỉ có thân thể tái nhợt, bê bết máu của John Innelman, bất tỉnh, đổ sụp xuống chân cô.
Sachs hét ầm lên. “Anh ấy đây rồi. Gọi nhân viên cấp cứu ngay! Anh ấy bị thương rất nặng.”
Sachs cúi xuống kiểm tra cho anh ta. Hai nhân viên cấp cứu cùng một số đặc vụ chạy tới. Dellray cũng có trong số đó, khuôn mặt đầy vẻ căm hận.
“Hắn đã làm gì cậu thế này, John? Ôi, trời ơi.” Người đặc vụ cao lòng khòng đứng lùi lại trong khi hai nhân viên cấp cứu bắt tay vào việc. Họ cắt bỏ phần lớn quần áo của nạn nhân và kiểm tra những vết dao đâm. Đôi mắt Innelman vẫn mở hé, đờ đẫn.
“Cậu ấy còn...?” Dellray hỏi.
“Sống, nhưng chỉ là thoi thóp thôi.”
Hai nhân viên cấp cứu áp vội mấy miếng gạc vào những vết dao rạch, buộc garô lên chân và cánh tay của người đặc vụ xấu số, rồi cắm chai truyền nước. “Đưa anh ấy lên xe cấp cứu. Chúng ta phải khẩn trương. Nhanh tay nữa lên!”
Họ đặt người đặc vụ lên một chiếc cáng rồi vội vàng khiêng anh ra hành lang. Dellray cũng ra cùng, đầu cúi gục xuống, miệng lẩm bẩm một mình và vò chặt mẩu thuốc lá tắt ngúm giữa những ngón tay của mình.
“Anh ta có nói được không?” Rhyme hỏi. “Có manh mối cho thấy tên Vũ công thoát theo đường nào không?”
“Không, anh ấy mê man rồi. Tôi không biết họ có cứu được anh ấy không nữa. Lạy Chúa.”
“Đừng bấn loạn thế, Sachs. Chúng ta vẫn còn một hiện trường phải phân tích. Bằng mọi giá chúng ta phải tìm ra tên Vũ công đang ở đâu, liệu hắn còn ẩn nấp quanh đó không. Quay lại phòng kho đi. Kiểm tra xem ở đó có cửa chính hay cửa sổ nào dẫn ra ngoài không?”
Cô vừa rảo bước vừa đặt câu hỏi, “Làm thế nào mà anh biết về cái tủ?”
“Căn cứ vào hướng của những giọt máu. Hắn đẩy Innelman vào bên trong và nhúng một chiếc giẻ vào máu anh ấy. Hắn bước tới chiếc thang máy và vung mạnh chiếc giẻ. Những vết máu văng ra theo các hướng khác nhau khi chúng rơi xuống. Đó là lý do chúng có hình dáng như những giọt nước mắt. Và một khi hắn đã tìm cách dụ chúng ta về phía chiếc thang máy, chúng ta phải truy lùng theo hướng ngược lại để tìm con đường hắn tẩu thoát. Căn phòng để đồ. Cô đến nơi chưa?”
“Đây rồi.”
“Miêu tả nó đi.”
“Có một ô cửa sổ trổ ra con hẻm. Trông có vẻ như hắn đã định mở nó ra. Nhưng nó vẫn được trét kín bằng mát tít. Không có cửa lớn.” Cô nhìn ra ngoài cửa sổ. “Tuy nhiên, tôi không hề nhìn thấy bất kỳ dấu hiệu vị trí nào của lực lượng mai phục. Không biết điều gì đã đánh động hắn.”
“Cô không nhìn thấy cảnh sát mai phục nào”, Rhyme nói với vẻ chua chát. “Nhưng hắn thì có đấy. Nào, giờ thì bước tọa độ và hãy xem chúng ta tìm được những gì.”
Cô kiểm tra hiện trường thật kỹ lưỡng, bước đầy đủ các tọa độ kẻ ô, rồi dùng máy hút bụi thu thập bằng chứng vi lượng và thận trọng cho những thứ tìm được vào túi.
“Cô thấy những gì? Có gì không?”
Cô rọi đèn pin lên những bức tường và rồi cô nhận ra hai tảng gạch lớn bị xê dịch khỏi vị trí. Một cái khe hở rất chật chội, nhưng một người mềm dẻo vẫn có thể luồn qua đây được.
“Phát hiện được đường tẩu thoát của hắn rồi, Rhyme. Hắn đi xuyên qua tường. Có một vài tảng gạch bê tông bị bong ra.”
“Đừng tự mở nó ra. Cho gọi đội SWAT vào đã.”
Cô gọi một số đặc vụ tới căn phòng và họ tập trung rút những khối gạch ra, dùng đèn pin gắn trên nòng những khẩu tiểu liên H&K của mình lia thật kỹ khoảng trống đằng sau bức tường.
“An toàn”, một đặc vụ hô to. Sachs rút súng của mình và lách người vào trong khoảng không tối om, lạnh lẽo.
Đó là một bờ dốc thoai thoải hẹp phủ đầy gạch đá vụn, dẫn xuyên qua một lỗ hổng trong nền móng. Nước nhỏ xuống lõng bõng. Cô thận trọng đặt chân lên những tảng bê tông lớn và tránh không chạm đến những khoảng đất ẩm ướt.
“Cô nhìn thấy những gì vậy, Sachs? Hãy cho tôi biết đi!”
Cô lia chiếc đèn PoliLight qua những nơi mà theo logic thông thường kiểu gì tên Vũ công cũng phải bước chân qua hoặc bám tay vào. “Oa, Rhyme.”
“Sao vậy?”
“Dấu tay. Còn mới tinh đây này... Khoan đã. Nhưng ở đây lại có cả dấu găng tay nữa. Nhòe vết máu. Chắc chắn là do hắn cầm chiếc giẻ nhúng máu. Tôi thật không hiểu nổi. Trông như một cái hang... Có lẽ hắn bỏ găng tay ra vì lý do nào đó. Có lẽ hắn nghĩ ở trong đường hầm này hắn đã được an toàn.”
Rồi cô nhìn xuống và rọi ánh đèn màu vàng-xanh kỳ quái xuống chân mình. “Ôi.”
“Gì thế?”
“Đó không phải là dấu vân tay của hắn. Hắn đi cùng một người nào đó.”
“Một người nào đó là sao? Làm sao cô biết được?”
“Có cả một bộ dấu chân khác. Tất cả đều còn mới nguyên. Một dấu lớn hơn dấu kia. Cả hai đều di chuyển về cùng một hướng, chúng chạy rất nhanh. Lạy Chúa, Rhyme.”
“Có chuyện gì thế?”
“Có nghĩa là hắn có đồng bọn.”
“Thôi nào, Sachs. Đằng nào thì cốc cũng đầy rồi.” Rhyme thích thú nói thêm, “Như thế có nghĩa là chúng ta sẽ có lượng bằng chứng nhiều gấp đôi để có thể lùng ra hắn”.
“Tôi chỉ đang nghĩ”, cô trầm giọng nói, “như thế có nghĩa là hắn sẽ trở nên nguy hiểm gấp đôi thôi”.
“Cô tìm được những gì rồi?”, Lincoln Rhyme hỏi.
Sachs vừa về đến nhà Rhyme. Cô và Mel Cooper đang bắt đầu xem xét những bằng chứng thu thập được tại hiện trường. Sachs và đội SWAT đã lần theo những dấu chân vào trong một đường hầm dẫn hệ thống cáp điện ngầm của hãng Con Ed, đến đây thì họ mất dấu tên Vũ công và đồng bọn của hắn. Trông có vẻ như cả hai tên đã trèo lên mặt phố và tẩu thoát qua một miệng lỗ cống.
Sachs đưa cho Cooper dấu vân tay mà cô tìm thấy ở ngay lối vào đường hầm. Người kỹ thuật viên cho quét mẫu vân tay vào máy tính và gửi nó tới cơ sở dữ liệu của liên bang để đối chiếu qua hệ thống AFIS.
Rồi cô giơ cao hai bản in tĩnh điện lên cho Rhyme kiểm tra. “Đây là những dấu chân trong đường cống. Đây là dấu chân của tên Vũ công.” Cô cầm một tấm phim lên – trong suốt, như một bức chụp X-quang. “Nó ăn khớp với dấu chân trong văn phòng người bác sĩ tâm thần trên tầng một mà hắn đã đột nhập.”
“Hắn đi đôi giày loại của các công nhân nhà máy cỡ trung bình”, Rhyme nói.
“Chẳng lẽ anh hy vọng hắn lại đi ủng lính nữa sao”, Sellitto làu bàu.
“Không, nếu thế thì lại lộ liễu quá. Giày công nhân có đế cao su để tăng ma sát và có cả mũi bọc thép ở đầu ngón chân. Chúng cũng tốt chẳng kém gì ủng lính trong trường hợp người dùng không cần đỡ thêm cho mắt cá. Giữ tấm kia lại gần đây, Sachs.”
Dấu giày nhỏ hơn mòn vẹt hẳn đi ở gót và lòng dưới bàn chân. Có một vết thủng khá to ở chiếc giày bên phải và thậm chí qua cái lỗ này còn thấy nguyên cả một mảng da với những nếp nhăn chạy chằng chịt.
“Không đi tất. Có lẽ bạn hắn là người vô gia cư.”
“Tại sao hắn phải cần có người đi cùng làm gì?” Cooper hỏi.
“Không biết”, Sellitto nói. “Nghe nói hắn toàn hành sự đơn độc. Hắn sử dụng người khác nhưng hắn không bao giờ tin họ.”
Người ta cũng buộc tội mình hệt như vậy, Rhyme tự nhủ. Anh nói, “Và để lại dấu vân tay ở hiện trường ư? Tên này không phải dân chuyên nghiệp. Chắc chắn hắn phải có điều gì đó mà tên Vũ công cần đến.”
“Con đường thoát ra khỏi tòa nhà, như thế chẳng hạn”, Sachs phỏng đoán.
“Cũng có thể là một khả năng.”
“Và có lẽ lúc này anh ta cũng chết rồi”, Sachs nói thêm.
Có lẽ, Rhyme thầm đồng ý.
“Những dấu giày”, Cooper nói. “Trông chúng khá nhỏ. Theo tôi thì chỉ khoảng cỡ tám của nam giới.”
Kích thước của gót chân chưa chắc đã tỷ lệ thuận với cỡ giày vả lại càng không nói lên điều gì về vóc dáng của người đi đôi giày đó, nhưng dù sao cũng có thể phỏng đoán rằng đồng bọn của tên Vũ công không lấy gì làm cao lớn cho lắm.
Quay sang với những bằng chứng vi lượng, Cooper cho các mẫu vật lên một tấm kính và đặt nó dưới ống kính hiển vi điện tử. Anh chuyển hình ảnh từ kính hiển vi qua màn hình máy tính của Rhyme.
“Chế độ chỉ huy, kéo con trỏ sang trái”, Rhyme ra lệnh vào mic của mình. “Dừng lại. Nháy đúp chuột.” Anh căng mắt nhìn trên màn hình máy tính. “Thêm những mẩu vữa vụn từ khối tường bê tông. Bụi bẩn và đất… Cô lấy những cái này ở đâu vậy, Sachs?”
“Tôi cạo nó ra từ xung quanh những khối gạch bê tông và hút bụi trên sàn đường cống ngầm. Tôi cũng tìm thấy một cái tổ đằng sau mấy cái hộp carton mà có vẻ như đã có người ẩn nấp ở đó một thời gian.”
“Tốt lắm. Được rồi, Mel cho phân tích bằng sắc ký khí. Có rất nhiều chất ở đây mà tôi không nhận ra.”
Máy phổ kế khối lượng rùng rùng khởi động, phân tích thành phần các hợp chất rồi gửi kết quả là những quầng khí sang máy sắc ký khí để xác định thành phần hóa học. Cooper chăm chú theo dõi màn hình.
Anh thở phù một hơi dài với vẻ ngỡ ngàng. “Kể cũng thật ngạc nhiên là bạn của hắn vẫn còn bước được.”
“Nói cụ thể một chút đi, Mel.”
“Hắn là cả một hiệu thuốc, Lincoln. Ở đây chúng ta có secobarbital, phenobarbital, dexedrine, amobarbital, meprobamate, chlordiazepoxide, diazepam.”
“Lạy Chúa”, Sellitto thốt lên. “Hồng phiến, ma túy tổng hợp, thuốc lắc...”
Cooper nói tiếp, “Cả hai loại đường lactose và sucrose nữa. Calcium, vitamin, các loại enzyme thường thấy ở sản phẩm sữa”.
“Sữa bột cho trẻ em”, Rhyme thốt lên. “Dân buôn dùng nó để trộn lẫn với ma túy.”
“Có nghĩa là đồng bọn của Vũ công là một thằng nghiện. Sao lại thế nhỉ?”
Sachs nói, “Ở đó có không biết bao nhiêu văn phòng của các bác sĩ... Chắc chắn tên này đã mò vào để ăn cắp thuốc.”
“Truy cập vào chương trình FINEST ngay”, Rhyme ra lệnh. “Lập danh sách tất cả những tên nghiện và buôn thuốc mà họ có.”
Sellitto bật cười, “Như thế có mà bằng cả một tập dày như quyển Danh bạ điện thoại, Lincoln”.
“Có ai bảo đây là việc dễ dàng đâu, Lon.”
Nhưng trước khi viên cảnh sát kịp gọi điện thì Cooper nhận được một email.
“Đừng mất công làm gì.”
“Sao thế?”
“Muốn nghe kết quả báo cáo AFIS về dấu vân tay không?” Người kỹ thuật viên gõ gõ lên màn hình. “Cho dù tên này có là ai chăng nữa, hắn cũng không hề có trong hồ sơ lưu ở thành phố New York hay của bang và tại NCIC[84]”
Chú thích
[84]NCIC (viết tắt của National Crime Information Center): Trung tâm Thông tin Tội phạm Quốc gia.
“Chết tiệt!”, Rhyme lầm bầm chửi. Anh cảm thấy như bị nguyền rủa. Chẳng lẽ mọi việc không thể dễ dàng hơn chút nào hay sao? Anh càu nhàu, “Còn dấu vết nào nữa không?”.
“Còn một chút đây”, Cooper nói. “Một mẩu gạch men màu xanh, phía sau có trát vữa, hình như là để gắn vào bề mặt tường bê tông.”
“Hãy kiểm tra thử xem.”
Cooper đặt mẫu vật vào vị trí quan sát của ống kính hiển vi.
Cổ anh giật giật, gần như rơi hẳn vào một cơn co thắt ngoài tầm kiểm soát, nhưng Rhyme vẫn cố chúi về phía trước và chăm chú nhìn lên màn hình. “Được rồi, gạch men ốp trên tấm khảm lâu năm. Bằng gốm, men rạn, lớp men có gốc chì. Theo tôi thì tuổi đời của nó ít nhất cũng phải sáu hay bảy chục năm gì đó.” Nhưng anh không thể đưa ra suy đoán liều lĩnh nào từ mẫu vật này. “Còn gì nữa không”, anh cáu kỉnh.
“Mấy sợi lông.” Cooper đặt chúng lên tấm kính để quan sát. Anh cúi đầu xuống ghé mắt vào ống kính.
Rhyme cũng kiểm tra những sợi lông mảnh hiện ra trên màn hình máy tính.
“Lông động vật”, anh nhận định.
“Lại là lông mèo à?” Sachs hỏi.
“Để xem nào”, Cooper nói, đầu vẫn cúi gằm xuống.
Nhưng mấy sợi lông này không phải lông động vật họ mèo. Mà là lông của loài thú gặm nhấm. “Chuột”, Rhyme kết luận. “Rattus norvegicus. Loài chuột cống thường thấy.”
“Tiếp tục đi. Có gì trong cái túi kia vậy, Sachs?” Rhyme hỏi không khác gì một cậu bé đang đói bụng lùng sục tìm kẹo sôcôla trên giá bày hàng của một cửa hàng bánh kẹo. “Không, không. Kia cơ. Đúng rồi, cái đó.”
Bên trong túi đựng bằng chứng là một tờ khăn giấy hình vuông với vết bẩn lem nhem màu nâu nhạt.
“Tôi tìm thấy nó trên tảng bê tông, đúng tảng mà hắn đã di chuyển. Tôi nghĩ có thể nó đã dính trên tay hắn. Không có dấu vân tay nhưng những vết này có thể đã do một bàn tay tạo ra.”
“Tại sao cô lại nghĩ vậy?”
“Vì tôi đã xoa tay bàn tay mình lên một ít đất rồi ấn vào một tảng gạch bê tông khác. Dấu vết để lại cũng giống hệt luôn.”
Đó mới đúng là Amelia của mình, anh thầm nghĩ. Trong thoáng chốc, tâm trí anh chợt quay lại với đêm hôm trước – hai người nằm bên nhau. Anh cố xua ý nghĩ đó ra khỏi đầu.
“Cái gì vậy, Mel?”
“Hình như là mỡ. Dính đầy cả bụi, đất bẩn, những mẩu gỗ vụn và những vật chất hữu cơ. Thịt động vật, tôi nghĩ vậy. Tất cả đều rất lâu rồi. Hãy nhìn kỹ phía góc bên trên kìa.”
Rhyme chăm chú nhìn những đốm màu bạc trên màn hình máy tính của mình. “Kim loại. Được giũa hoặc mài ra từ cái gì đó. Cho phân tích sắc ký khí đi. Cứ kiểm tra cho thật chắc chắn.”
Cooper làm theo.
“Chất hóa dầu”, anh trả lời. “Được lọc qua loa, không có phụ gia... Đó là mạt sắt cùng với những vi lượng manganese, silicon và carbon.”
“Chờ chút”, Rhyme nói to. “Còn nguyên tố nào khác không – chromium, cobalt, đồng, nickel, tungsten?”
“Không.”
Rhyme đăm đăm nhìn lên trần nhà. “Kim loại à? Đó là thép cũ, được luyện từ gang ở một lò luyện Bessemer. Nếu là thép mới thì kiểu gì trong đó cũng phải có những nguyên tố như tôi vừa nói.”
“Còn cả cái này nữa đây. Nhựa than đá.”
“Creosote!” Rhyme reo lên. “Tôi hiểu rồi. Sai lầm nghiêm trọng đầu tiên của tên Vũ công. Đồng bọn của hắn là một tấm bản đồ di động.”
“Dẫn tới đâu?” Sachs hỏi.
“Tới tàu điện ngầm. Vết mỡ đó đã lâu năm, vụn thép cũng từ những thanh tà vẹt và đinh đóng đường ray cũ, chất creosote là từ những thanh tà vẹt. À, còn những mẩu gạch men là từ một tấm tranh khảm. Rất nhiều những nhà ga tàu điện ngầm cũ được ốp gạch men – trong đó có những bức tranh miêu tả khung cảnh gì đó liên quan đến từng khu vực.”
Sachs nói, “Đúng rồi – như ở ga Astor Place vẫn còn những bức khảm hình các loại động vật mà Jonh Jacob Astor đã từng mua bán”.
“Gạch gốm tráng men ốp tường. Vậy ra đó chính là lý do tên Vũ công cần đến gã này. Một nơi để lẩn trốn. Đồng bọn của tên Vũ công có thể là một gã vô gia cư nghiện ma túy sống ở đoạn đường tránh tàu, hay hầm ngầm, hoặc thậm chí là nhà ga cũ bỏ không ở đâu đó.”
Rhyme chợt nhận ra mọi người trong phòng đều đang quay ra nhìn bóng một người đàn ông hiện ra ở ngưỡng cửa. Anh cũng im bặt.
“Dellray?” Sellitto lúng túng lên tiếng.
Khuôn mặt tối sầm, u ám của Fred Dellray đang trân trân nhìn ra ngoài cửa sổ.
“Có chuyện gì thế?” Rhyme hỏi.
“Chuyện về Innelman. Họ đã khâu cho cậu ấy. Tất cả là hơn ba trăm mũi. Nhưng cũng đã quá muộn. Mất quá nhiều máu. Cậu ấy vừa mới qua đời.”
“Tôi rất tiếc”, Sachs nói.
Viên đặc vụ giơ hai cánh tay lên đầu chán nản, những ngón tay dài lòng khòng trông như những cái que nhọn hoắt.
Mọi người trong phòng đều biết về người cộng sự lâu năm của Dellray – người bị giết trong vụ đánh bom Tòa nhà Liên bang ở thành phố Oklahoma. Và Rhyme còn nghĩ đến Tony Panelli – bị bắt cóc ngay giữa trung tâm thành phố cách đây vài ngày. Có lẽ lúc này anh ta cũng đã chết, đầu mối duy nhất liên quan đến số phận tay đặc vụ xấu số là những hạt cát bí ẩn.
Và giờ đây lại một người bạn khác của Dellray đã ra đi.
Viên đặc vụ lồng lên đi đi lại lại trong phòng một cách đầy đe dọa.
“Mọi người có biết tại sao cậu ấy bị rạch khủng khiếp đến thế không – Innelman ấy?”
Tất cả đều biết; nhưng không ai trả lời.
“Một cách đánh lạc hướng. Đó là lý do duy nhất trên đời này. Để ngăn chúng ta bám theo hắn. Mọi người có tin được không? Một thủ đoạn đánh lạc hướng khốn kiếp.” Đột nhiên anh đứng sững lại. Anh chằm chằm nhìn Rhyme với đôi mắt đen ngòm đáng sợ của mình. “Tóm lại là anh đã có đầu mối nào chưa, Lincoln?”
“Không nhiều lắm.” Rhyme bắt đầu giải thích về người bạn vô gia cư của tên Vũ công, về các loại ma túy, cái xó xỉnh mà hắn đang náu mình trong đường tàu điện ngầm. Ở đâu đó.
“Thế thôi sao?”
“Tôi e là thế. Nhưng chúng ta vẫn còn một số bằng chứng cần xem xét tiếp.”
“Bằng chứng”, Dellray khẽ lầm bầm với vẻ khinh bỉ. Anh rảo bước ra cửa, rồi dừng lại. “Một thủ đoạn đánh lạc hướng. Đó đếch phải là lý do chó chết khiến một người tốt phải chết. Đếch phải là lý do gì hết.”
“Fred, khoan đã... chúng tôi cần anh.”
Nhưng viên đặc vụ không nghe thấy, hoặc có nghe thấy thì anh cũng phớt lờ lời gọi của Rhyme. Anh hầm hầm lao ra khỏi phòng.
Một lát sau cánh cửa dưới nhà đóng sập lại với một tiếng cạch lạnh lùng.
"Chó chết.Chó chết!”, Rhyme gầm lên, nước bọt vãi tung tóe trên cằm anh.
Thom bước lại bên chiếc ghế định lau cằm cho anh, nhưng Rhyme giận dữ lắc đầu xua anh ta đi.
“Bo?”, anh gọi to vào mic của mình.
“Nói đi”, Haumann trả lời từ chiếc xe thùng chỉ huy.
“Tôi nghĩ bằng cách nào đó hắn đã phát hiện ra chúng ta và đang tìm cách thoát ra ngoài. Ra lệnh cho các nhân viên của anh tổ thức thành những nhóm phòng ngự. Tôi không muốn bất kỳ ai đi riêng lẻ. Đưa tất cả mọi người vào tòa nhà. Tôi nghĩ…”
“Chờ máy đã… Chờ máy đã. Ôi, không…”
“Bo? Sachs?… Có ai không?”
Nhưng không có ai trả lời.
Rhyme nghe thấy những tiếng quát tháo trên sóng radio. Sóng liên lạc bị cắt đứt. Và rồi lệnh cấp báo dồn dập vang lên: “… yểm trợ. Chúng tôi phát hiện có vết máu. Trong tòa nhà văn phòng. Vâng, vâng… không… dưới tầng… Trong tầng hầm. Không thấy Innelman báo cáo gì. Anh ấy… ở dưới tầng hầm. Tất cả các đơn vị cơ động, cơ động. Khẩn trương lên, cơ động!…”.
Rhyme hét lên, “Bell, anh có nghe tôi nói không? Tăng gấp đôi số người bảo vệ bên cạnh nhân chứng. Không được, tôi xin nhắc lại, tuyệt đối không được để họ trong tình trạng không có người bên cạnh. Tên Vũ công đã thoát và chúng tôi không biết hắn đang ở đâu”.
Giọng nói bình tĩnh của Roland Bell vang len trên đường dây. “Vẫn đang che chắn họ rất chu đáo. Không có ai lọt vào đây được đâu.”
Một khoảng chờ đợi thật căng thẳng. Không thể nào chụi nổi. Rhyme chỉ muốn gào lên vì phẩn uất.
Hắn đang ở đâu chứ?
Con rắn độc trong một căn phòng tối…
Rồi lần lượt từng cảnh sát vũ trang và đặc vụ liên bang lên tiếng, báo cáo với Haumann và Dellray rằng họ đã phong tỏa từng tầng, từng tầng một.
Cuối cùng, Rhyme nghe thấy: “Tầng hầm đã được phong tỏa. Nhưng lạy Chúa, dưới này có rất nhiều máu. Và Innelman đã mất tích. Chúng tôi không tìm thấy anh ấy! Lạy Chúa, không biết bao nhiêu là máu!”.
“Rhyme, anh có nghe thấy tôi nói không?”
“Được rồi.”
“Tôi đang ở dưới tầng hầm tòa nhà văn phòng”, Amelia Sachs nói vào cần mic máy bộ đàm của mình, không ngừng quan sát xung quanh.
Những bức tường bê tông màu vàng ệch bẩn thỉu, sàn nhà phủ một màu xám xịt như vỏ tàu chiến. Nhưng có lẽ không một ai để tâm đến kiểu bài trí của cái nơi u ám này; máu chảy lênh láng khắp nơi, như một bức tranh kinh dị của Jackson Pollock[83].
Người đặc vụ đáng thương, cô thầm nghĩ. Innelman. Tốt nhất là phải tìm thấy anh ta thật nhanh. Bất kỳ ai mất nhiều máu đến mức này cũng không thể chịu đựng được quá mười lăm phút.
“Cô cầm sẵn hộp dụng cụ đấy chứ?”, Rhyem hỏi cô.
“Chúng ta không có thời gian đâu! Cơ man nào là máu, chúng ta phải tìm thấy anh ấy đã!”
“Bình tĩnh đi, Sachs. Hộp dụng cụ. Mở hộp dụng cụ ra.”
Cô thở dài. “Được rồi! Tôi làm đây.”
Hộp dụng cụ phát hiện dấu máu tại hiện trường vụ án gồm một chiếc thước kẻ, thước đo góc gắn kèm một sợi dây, thước dây, bộ test Kastle-Meyer Reagent dùng để kiểm tra nhanh tại hiện trường. Cả chất Luminol – có tác dụng phát hiện dư chất sắt oxide có trong máu ngay cả khi hung thủ đã chùi rửa sạch tất cả những dấu vết khác.
“Tất cả là một mớ hỗn độn, Rhyme ạ”, cô thì thào. “Chắc tôi sẽ không thể phát hiện được gì đâu.”
“Ôi, hiện trường sẽ cho chúng ta biết nhiều hơn những gì cô tưởng đấy, Sachs. Nó sẽ cho chúng ta biết rất nhiều.”
Hừm, nếu như có người có thể giải mã được khung cảnh kinh hoàng này thì đó hẳn phải là Rhyme; Sachs biết rằng Rhyme và Cooper là thành viên kỳ cựu của Hiệp hội Quốc tế những nhà phân tích vết máu. (Cô cũng không biết điều gì là khó chịu hơn nữa – những vết máu lênh láng tại hiện trường các vụ án hay thực tế là có một nhóm chuyên nghiên cứu về chủ đề này.) Nhưng lần này dường như không có cơ sở gì để hy vọng cả.
“Chúng ta phải tìm được anh ấy đã…”
“Sachs, bình tĩnh đi… Cô vẫn nghe tôi nói đấy chứ?”
Sau một hồi im lặng kéo dài cô nói, “Được rồi”.
“Tất cả những gì cô cần lúc này là cái thước kẻ”, anh nói. “Bắt đầu nhé, hãy tả cho tôi nghe những gì cô thấy.”
“Có vết máu loang lổ khắp nơi dưới này.”
“Vết máu bắn ra nói lên rất nhiều điều. Nhưng nó cũng trở nên vô nghĩa trừ phi bề mặt máu dây vào đồng nhất và bằng phẳng. Sàn nhà ở đó thế nào?”
“Xi măng láng mịn.”
“Tốt rồi. Những vết máu có to không? Hãy đo đi.”
“Anh ấy sắp chết rồi. Rhyme.”
“To đến mức nào?” Anh gắt lên.
“Tất cả đều có kích thước khác nhau. Có đến hàng trăm vết với kích cỡ 3/4 inch. Một số vết lớn hơn. Khoảng hơn một inch gì đó. Hàng nghìn vết rất nhỏ. Như dấu máu phun ra.”
“Hãy quên những vết nhỏ đi. Chúng là những giọt rơi văng ra, kiểu như vệ tinh của các dấu máu khác. Hãy miêu tả những vết máu lớn nhất đi. Hình dáng?”
“Chủ yếu là hình tròn.”
“Có viền kiểu vỏ sò, đúng không?”
“Đúng”, cô lầm bầm. “Nhưng cũng có những vết máu có viền trơn đều. Ngay trước mặt tôi cũng có mấy vết. Tuy nhiên chúng nhỏ hơn một chút.”
Anh ấy ở đâu nhỉ? Cô tự hỏi. Innelman. Người đàn ông cô chưa bao giờ gặp mặt. Mất tích và máu trào ra như một đài phun nước.
“Sachs?”
“Cái gì?” cô gắt.
“Thế còn những giọt nhỏ hơn thì sao? Hãy miêu tả cho tôi biết đi.”
“Chúng ta không có thời gian cho việc này đâu!”
“Chúng ta không có thời gian để không làm việc này”, anh lạnh lùng nói.
Quỷ tha ma bắt anh đi, Rhyme, cô thầm rủa, rồi nói. “Được rồi”. Cô lúi húi đo. “Mỗi vết có đường kính khoảng nửa inch. Tròn xoe. Không hề có viền răng cưa kiểu vỏ sò...”
“Những vết đó ở đâu?” Anh hỏi dồn dập. “Ở một đầu hành lang, hay ở đầu kia?”
“Chủ yếu là ở giữa. Có một phòng kho ở cuối sảnh lớn. Bên trong đó và gần đó những vết máu lớn hơn và có viền răng cưa hoặc viền vỏ sò. Ở đầu kia của hành lang, vết máu nhỏ hơn.”
“Được rồi, được rồi”, Rhyme lơ đãng đáp lại, rồi anh chợt tuyên bố, “Câu chuyện là như thế này… Tên người đặc vụ đó là gì nhỉ?”.
“Innelman. John Innelman. Anh ấy là một người bạn của Dellray.”
“Tên Vũ công tấn công Innelman trong nhà kho, hắn đâm anh ta một nhát, ở trên cao. Làm anh ta bị tê liệt, có lẽ là vào cổ hoặc cánh tay. Đó là những giọt to, không đều nhau. Sau đó hắn lôi anh ta ra ngoài hành lang rồi đâm nhát nữa, lần này thì thấp hơn. Đó là những vết máu nhỏ và tròn trịa hơn. Khoảng cách mà máu rơi từ vết đâm xuống đất càng ngắn thì viền vết máu càng đều hơn.”
“Tại sao hắn lại làm thế?”
“Để ngăn bước truy lùng của chúng ta. Hắn biết chúng ta sẽ đi tìm một đặc vụ bị thương trước khi bắt đầu săn lùng hắn.”
Anh ấy nói đúng, cô thầm nghĩ, nhưng chúng ta đang tìm kiếm quá chậm chạp!
“Hành lang dài bao nhiêu?”
Cô thở dài, rồi cúi xuống ước lượng. “Khoảng 50 feet. Tầm đó, và toàn bộ hành làng đều lênh láng vết máu.”
“Trong các vũng máu có dấu chân không?”
“Rất nhiều. Chúng tản về đủ các hướng. Đợi chút... Có một hành lang dịch vụ. Lúc đầu tôi không để ý. Vết máu dẫn về phía đó! Chắc chắn anh ấy đang ở trong đó. Chúng ta phải...”
“Không, Sachs, chờ đã. Như thế quá lộ liễu.”
“Chúng ta phải cho phá cửa thang máy ngay. Tôi sẽ gọi cho Sở Cứu hỏa để họ cử người mang dụng cụ phá cửa đến hoặc tốt nhất là chìa khóa thang máy. Họ có thể...”
Rhyme bình tĩnh nói, “Nghe tôi đã. Những vết máu dẫn đến thang máy trông có giống những giọt nước mắt không? Với phần đuôi chỉ về các hướng khác nhau ấy?”.
“Chắc chắn anh ấy phải ở trong thang máy! Có vết máu loang lổ trên cánh cửa. Anh ấy sắp chết rồi, Rhyme! Sao anh không chịu nghe tôi chứ?”
“Những giọt nước mắt, Sachs?” Anh hỏi thật vỗ về. “Trông chúng có giống những con nòng nọc không?”
Cô nhìn xuống. Quả là thế thật. Giống hệt những con nòng nọc với những cái đuôi ngoe nguẩy về nhiều hướng khác nhau.
“Đúng vậy, Rhyme. Giống thật.”
“Lùi lại đến khi những vết máu đó kết thúc.”
Thật điên rồ. Innelman đang mất máu sắp chết trong cầu thang máy. Cô trừng trừng nhìn cách cửa sắt hồi lâu, đã nghĩ đến chuyện mặc xác Rhyme, nhưng rồi cuối cùng cô cũng lùi về phía đầu hành lang.
Tới chỗ những dấu máu dừng hẳn lại.
Chú thích
[83]Jackson Pollock (1912-1954): Họa sĩ nổi tiếng người Mỹ, theo trường phái trừu tượng.
“Đây rồi, Rhyme. Chúng dừng lại ở đây.”
“Ngay cần một chiếc tủ hoặc một cánh cửa, đúng không?”
“Vâng, nhưng làm sao anh lại biết?”
“Và cửa được chốt từ bên ngoài?”
“Chính xác.”
“Hắn làm thế bằng cách quái gì nhỉ?”
“Vậy là đội kiểm tra đã nhìn thấy cái chốt cửa và bỏ qua nó – vì họ nghĩ không đời nào tên Vũ công lại tự nhốt mình bên trong đó. Hừ, Innelman đang ở trong đó đấy. Mở cánh cửa ra, Sachs. Dùng kìm cặp vào tay nắm cửa, đừng chạm vào tay nắm. Vẫn có khả năng chúng ta sẽ lấy được dấu vân tay. Mà này, Sachs?”
“Vâng?”
“Tôi không nghĩ hắn có gài lại bom. Hắn không có đủ thời gian đâu. Nhưng cho dù người đặc vụ có đang bị làm sao chăng nữa, mà tôi tin là sẽ không tốt đâu, hãy tạm thời bỏ qua anh ta trong một phút và trước tiên phải kiểm tra xem có cái bẫy nào không.”
“Được rồi.”
“Cô hứa chứ?”
“Vâng.”
Kìm rút ra trên tay... rút thanh chốt... vặn tay nắm.
Khẩu Glock lăm lăm trên tay. Cảnh giác nghe ngóng. Nào!
Cánh cửa mở toang.
Nhưng không có bom hay bấy kỳ chiếc bẫy nào. Chỉ có thân thể tái nhợt, bê bết máu của John Innelman, bất tỉnh, đổ sụp xuống chân cô.
Sachs hét ầm lên. “Anh ấy đây rồi. Gọi nhân viên cấp cứu ngay! Anh ấy bị thương rất nặng.”
Sachs cúi xuống kiểm tra cho anh ta. Hai nhân viên cấp cứu cùng một số đặc vụ chạy tới. Dellray cũng có trong số đó, khuôn mặt đầy vẻ căm hận.
“Hắn đã làm gì cậu thế này, John? Ôi, trời ơi.” Người đặc vụ cao lòng khòng đứng lùi lại trong khi hai nhân viên cấp cứu bắt tay vào việc. Họ cắt bỏ phần lớn quần áo của nạn nhân và kiểm tra những vết dao đâm. Đôi mắt Innelman vẫn mở hé, đờ đẫn.
“Cậu ấy còn...?” Dellray hỏi.
“Sống, nhưng chỉ là thoi thóp thôi.”
Hai nhân viên cấp cứu áp vội mấy miếng gạc vào những vết dao rạch, buộc garô lên chân và cánh tay của người đặc vụ xấu số, rồi cắm chai truyền nước. “Đưa anh ấy lên xe cấp cứu. Chúng ta phải khẩn trương. Nhanh tay nữa lên!”
Họ đặt người đặc vụ lên một chiếc cáng rồi vội vàng khiêng anh ra hành lang. Dellray cũng ra cùng, đầu cúi gục xuống, miệng lẩm bẩm một mình và vò chặt mẩu thuốc lá tắt ngúm giữa những ngón tay của mình.
“Anh ta có nói được không?” Rhyme hỏi. “Có manh mối cho thấy tên Vũ công thoát theo đường nào không?”
“Không, anh ấy mê man rồi. Tôi không biết họ có cứu được anh ấy không nữa. Lạy Chúa.”
“Đừng bấn loạn thế, Sachs. Chúng ta vẫn còn một hiện trường phải phân tích. Bằng mọi giá chúng ta phải tìm ra tên Vũ công đang ở đâu, liệu hắn còn ẩn nấp quanh đó không. Quay lại phòng kho đi. Kiểm tra xem ở đó có cửa chính hay cửa sổ nào dẫn ra ngoài không?”
Cô vừa rảo bước vừa đặt câu hỏi, “Làm thế nào mà anh biết về cái tủ?”
“Căn cứ vào hướng của những giọt máu. Hắn đẩy Innelman vào bên trong và nhúng một chiếc giẻ vào máu anh ấy. Hắn bước tới chiếc thang máy và vung mạnh chiếc giẻ. Những vết máu văng ra theo các hướng khác nhau khi chúng rơi xuống. Đó là lý do chúng có hình dáng như những giọt nước mắt. Và một khi hắn đã tìm cách dụ chúng ta về phía chiếc thang máy, chúng ta phải truy lùng theo hướng ngược lại để tìm con đường hắn tẩu thoát. Căn phòng để đồ. Cô đến nơi chưa?”
“Đây rồi.”
“Miêu tả nó đi.”
“Có một ô cửa sổ trổ ra con hẻm. Trông có vẻ như hắn đã định mở nó ra. Nhưng nó vẫn được trét kín bằng mát tít. Không có cửa lớn.” Cô nhìn ra ngoài cửa sổ. “Tuy nhiên, tôi không hề nhìn thấy bất kỳ dấu hiệu vị trí nào của lực lượng mai phục. Không biết điều gì đã đánh động hắn.”
“Cô không nhìn thấy cảnh sát mai phục nào”, Rhyme nói với vẻ chua chát. “Nhưng hắn thì có đấy. Nào, giờ thì bước tọa độ và hãy xem chúng ta tìm được những gì.”
Cô kiểm tra hiện trường thật kỹ lưỡng, bước đầy đủ các tọa độ kẻ ô, rồi dùng máy hút bụi thu thập bằng chứng vi lượng và thận trọng cho những thứ tìm được vào túi.
“Cô thấy những gì? Có gì không?”
Cô rọi đèn pin lên những bức tường và rồi cô nhận ra hai tảng gạch lớn bị xê dịch khỏi vị trí. Một cái khe hở rất chật chội, nhưng một người mềm dẻo vẫn có thể luồn qua đây được.
“Phát hiện được đường tẩu thoát của hắn rồi, Rhyme. Hắn đi xuyên qua tường. Có một vài tảng gạch bê tông bị bong ra.”
“Đừng tự mở nó ra. Cho gọi đội SWAT vào đã.”
Cô gọi một số đặc vụ tới căn phòng và họ tập trung rút những khối gạch ra, dùng đèn pin gắn trên nòng những khẩu tiểu liên H&K của mình lia thật kỹ khoảng trống đằng sau bức tường.
“An toàn”, một đặc vụ hô to. Sachs rút súng của mình và lách người vào trong khoảng không tối om, lạnh lẽo.
Đó là một bờ dốc thoai thoải hẹp phủ đầy gạch đá vụn, dẫn xuyên qua một lỗ hổng trong nền móng. Nước nhỏ xuống lõng bõng. Cô thận trọng đặt chân lên những tảng bê tông lớn và tránh không chạm đến những khoảng đất ẩm ướt.
“Cô nhìn thấy những gì vậy, Sachs? Hãy cho tôi biết đi!”
Cô lia chiếc đèn PoliLight qua những nơi mà theo logic thông thường kiểu gì tên Vũ công cũng phải bước chân qua hoặc bám tay vào. “Oa, Rhyme.”
“Sao vậy?”
“Dấu tay. Còn mới tinh đây này... Khoan đã. Nhưng ở đây lại có cả dấu găng tay nữa. Nhòe vết máu. Chắc chắn là do hắn cầm chiếc giẻ nhúng máu. Tôi thật không hiểu nổi. Trông như một cái hang... Có lẽ hắn bỏ găng tay ra vì lý do nào đó. Có lẽ hắn nghĩ ở trong đường hầm này hắn đã được an toàn.”
Rồi cô nhìn xuống và rọi ánh đèn màu vàng-xanh kỳ quái xuống chân mình. “Ôi.”
“Gì thế?”
“Đó không phải là dấu vân tay của hắn. Hắn đi cùng một người nào đó.”
“Một người nào đó là sao? Làm sao cô biết được?”
“Có cả một bộ dấu chân khác. Tất cả đều còn mới nguyên. Một dấu lớn hơn dấu kia. Cả hai đều di chuyển về cùng một hướng, chúng chạy rất nhanh. Lạy Chúa, Rhyme.”
“Có chuyện gì thế?”
“Có nghĩa là hắn có đồng bọn.”
“Thôi nào, Sachs. Đằng nào thì cốc cũng đầy rồi.” Rhyme thích thú nói thêm, “Như thế có nghĩa là chúng ta sẽ có lượng bằng chứng nhiều gấp đôi để có thể lùng ra hắn”.
“Tôi chỉ đang nghĩ”, cô trầm giọng nói, “như thế có nghĩa là hắn sẽ trở nên nguy hiểm gấp đôi thôi”.
“Cô tìm được những gì rồi?”, Lincoln Rhyme hỏi.
Sachs vừa về đến nhà Rhyme. Cô và Mel Cooper đang bắt đầu xem xét những bằng chứng thu thập được tại hiện trường. Sachs và đội SWAT đã lần theo những dấu chân vào trong một đường hầm dẫn hệ thống cáp điện ngầm của hãng Con Ed, đến đây thì họ mất dấu tên Vũ công và đồng bọn của hắn. Trông có vẻ như cả hai tên đã trèo lên mặt phố và tẩu thoát qua một miệng lỗ cống.
Sachs đưa cho Cooper dấu vân tay mà cô tìm thấy ở ngay lối vào đường hầm. Người kỹ thuật viên cho quét mẫu vân tay vào máy tính và gửi nó tới cơ sở dữ liệu của liên bang để đối chiếu qua hệ thống AFIS.
Rồi cô giơ cao hai bản in tĩnh điện lên cho Rhyme kiểm tra. “Đây là những dấu chân trong đường cống. Đây là dấu chân của tên Vũ công.” Cô cầm một tấm phim lên – trong suốt, như một bức chụp X-quang. “Nó ăn khớp với dấu chân trong văn phòng người bác sĩ tâm thần trên tầng một mà hắn đã đột nhập.”
“Hắn đi đôi giày loại của các công nhân nhà máy cỡ trung bình”, Rhyme nói.
“Chẳng lẽ anh hy vọng hắn lại đi ủng lính nữa sao”, Sellitto làu bàu.
“Không, nếu thế thì lại lộ liễu quá. Giày công nhân có đế cao su để tăng ma sát và có cả mũi bọc thép ở đầu ngón chân. Chúng cũng tốt chẳng kém gì ủng lính trong trường hợp người dùng không cần đỡ thêm cho mắt cá. Giữ tấm kia lại gần đây, Sachs.”
Dấu giày nhỏ hơn mòn vẹt hẳn đi ở gót và lòng dưới bàn chân. Có một vết thủng khá to ở chiếc giày bên phải và thậm chí qua cái lỗ này còn thấy nguyên cả một mảng da với những nếp nhăn chạy chằng chịt.
“Không đi tất. Có lẽ bạn hắn là người vô gia cư.”
“Tại sao hắn phải cần có người đi cùng làm gì?” Cooper hỏi.
“Không biết”, Sellitto nói. “Nghe nói hắn toàn hành sự đơn độc. Hắn sử dụng người khác nhưng hắn không bao giờ tin họ.”
Người ta cũng buộc tội mình hệt như vậy, Rhyme tự nhủ. Anh nói, “Và để lại dấu vân tay ở hiện trường ư? Tên này không phải dân chuyên nghiệp. Chắc chắn hắn phải có điều gì đó mà tên Vũ công cần đến.”
“Con đường thoát ra khỏi tòa nhà, như thế chẳng hạn”, Sachs phỏng đoán.
“Cũng có thể là một khả năng.”
“Và có lẽ lúc này anh ta cũng chết rồi”, Sachs nói thêm.
Có lẽ, Rhyme thầm đồng ý.
“Những dấu giày”, Cooper nói. “Trông chúng khá nhỏ. Theo tôi thì chỉ khoảng cỡ tám của nam giới.”
Kích thước của gót chân chưa chắc đã tỷ lệ thuận với cỡ giày vả lại càng không nói lên điều gì về vóc dáng của người đi đôi giày đó, nhưng dù sao cũng có thể phỏng đoán rằng đồng bọn của tên Vũ công không lấy gì làm cao lớn cho lắm.
Quay sang với những bằng chứng vi lượng, Cooper cho các mẫu vật lên một tấm kính và đặt nó dưới ống kính hiển vi điện tử. Anh chuyển hình ảnh từ kính hiển vi qua màn hình máy tính của Rhyme.
“Chế độ chỉ huy, kéo con trỏ sang trái”, Rhyme ra lệnh vào mic của mình. “Dừng lại. Nháy đúp chuột.” Anh căng mắt nhìn trên màn hình máy tính. “Thêm những mẩu vữa vụn từ khối tường bê tông. Bụi bẩn và đất… Cô lấy những cái này ở đâu vậy, Sachs?”
“Tôi cạo nó ra từ xung quanh những khối gạch bê tông và hút bụi trên sàn đường cống ngầm. Tôi cũng tìm thấy một cái tổ đằng sau mấy cái hộp carton mà có vẻ như đã có người ẩn nấp ở đó một thời gian.”
“Tốt lắm. Được rồi, Mel cho phân tích bằng sắc ký khí. Có rất nhiều chất ở đây mà tôi không nhận ra.”
Máy phổ kế khối lượng rùng rùng khởi động, phân tích thành phần các hợp chất rồi gửi kết quả là những quầng khí sang máy sắc ký khí để xác định thành phần hóa học. Cooper chăm chú theo dõi màn hình.
Anh thở phù một hơi dài với vẻ ngỡ ngàng. “Kể cũng thật ngạc nhiên là bạn của hắn vẫn còn bước được.”
“Nói cụ thể một chút đi, Mel.”
“Hắn là cả một hiệu thuốc, Lincoln. Ở đây chúng ta có secobarbital, phenobarbital, dexedrine, amobarbital, meprobamate, chlordiazepoxide, diazepam.”
“Lạy Chúa”, Sellitto thốt lên. “Hồng phiến, ma túy tổng hợp, thuốc lắc...”
Cooper nói tiếp, “Cả hai loại đường lactose và sucrose nữa. Calcium, vitamin, các loại enzyme thường thấy ở sản phẩm sữa”.
“Sữa bột cho trẻ em”, Rhyme thốt lên. “Dân buôn dùng nó để trộn lẫn với ma túy.”
“Có nghĩa là đồng bọn của Vũ công là một thằng nghiện. Sao lại thế nhỉ?”
Sachs nói, “Ở đó có không biết bao nhiêu văn phòng của các bác sĩ... Chắc chắn tên này đã mò vào để ăn cắp thuốc.”
“Truy cập vào chương trình FINEST ngay”, Rhyme ra lệnh. “Lập danh sách tất cả những tên nghiện và buôn thuốc mà họ có.”
Sellitto bật cười, “Như thế có mà bằng cả một tập dày như quyển Danh bạ điện thoại, Lincoln”.
“Có ai bảo đây là việc dễ dàng đâu, Lon.”
Nhưng trước khi viên cảnh sát kịp gọi điện thì Cooper nhận được một email.
“Đừng mất công làm gì.”
“Sao thế?”
“Muốn nghe kết quả báo cáo AFIS về dấu vân tay không?” Người kỹ thuật viên gõ gõ lên màn hình. “Cho dù tên này có là ai chăng nữa, hắn cũng không hề có trong hồ sơ lưu ở thành phố New York hay của bang và tại NCIC[84]”
Chú thích
[84]NCIC (viết tắt của National Crime Information Center): Trung tâm Thông tin Tội phạm Quốc gia.
“Chết tiệt!”, Rhyme lầm bầm chửi. Anh cảm thấy như bị nguyền rủa. Chẳng lẽ mọi việc không thể dễ dàng hơn chút nào hay sao? Anh càu nhàu, “Còn dấu vết nào nữa không?”.
“Còn một chút đây”, Cooper nói. “Một mẩu gạch men màu xanh, phía sau có trát vữa, hình như là để gắn vào bề mặt tường bê tông.”
“Hãy kiểm tra thử xem.”
Cooper đặt mẫu vật vào vị trí quan sát của ống kính hiển vi.
Cổ anh giật giật, gần như rơi hẳn vào một cơn co thắt ngoài tầm kiểm soát, nhưng Rhyme vẫn cố chúi về phía trước và chăm chú nhìn lên màn hình. “Được rồi, gạch men ốp trên tấm khảm lâu năm. Bằng gốm, men rạn, lớp men có gốc chì. Theo tôi thì tuổi đời của nó ít nhất cũng phải sáu hay bảy chục năm gì đó.” Nhưng anh không thể đưa ra suy đoán liều lĩnh nào từ mẫu vật này. “Còn gì nữa không”, anh cáu kỉnh.
“Mấy sợi lông.” Cooper đặt chúng lên tấm kính để quan sát. Anh cúi đầu xuống ghé mắt vào ống kính.
Rhyme cũng kiểm tra những sợi lông mảnh hiện ra trên màn hình máy tính.
“Lông động vật”, anh nhận định.
“Lại là lông mèo à?” Sachs hỏi.
“Để xem nào”, Cooper nói, đầu vẫn cúi gằm xuống.
Nhưng mấy sợi lông này không phải lông động vật họ mèo. Mà là lông của loài thú gặm nhấm. “Chuột”, Rhyme kết luận. “Rattus norvegicus. Loài chuột cống thường thấy.”
“Tiếp tục đi. Có gì trong cái túi kia vậy, Sachs?” Rhyme hỏi không khác gì một cậu bé đang đói bụng lùng sục tìm kẹo sôcôla trên giá bày hàng của một cửa hàng bánh kẹo. “Không, không. Kia cơ. Đúng rồi, cái đó.”
Bên trong túi đựng bằng chứng là một tờ khăn giấy hình vuông với vết bẩn lem nhem màu nâu nhạt.
“Tôi tìm thấy nó trên tảng bê tông, đúng tảng mà hắn đã di chuyển. Tôi nghĩ có thể nó đã dính trên tay hắn. Không có dấu vân tay nhưng những vết này có thể đã do một bàn tay tạo ra.”
“Tại sao cô lại nghĩ vậy?”
“Vì tôi đã xoa tay bàn tay mình lên một ít đất rồi ấn vào một tảng gạch bê tông khác. Dấu vết để lại cũng giống hệt luôn.”
Đó mới đúng là Amelia của mình, anh thầm nghĩ. Trong thoáng chốc, tâm trí anh chợt quay lại với đêm hôm trước – hai người nằm bên nhau. Anh cố xua ý nghĩ đó ra khỏi đầu.
“Cái gì vậy, Mel?”
“Hình như là mỡ. Dính đầy cả bụi, đất bẩn, những mẩu gỗ vụn và những vật chất hữu cơ. Thịt động vật, tôi nghĩ vậy. Tất cả đều rất lâu rồi. Hãy nhìn kỹ phía góc bên trên kìa.”
Rhyme chăm chú nhìn những đốm màu bạc trên màn hình máy tính của mình. “Kim loại. Được giũa hoặc mài ra từ cái gì đó. Cho phân tích sắc ký khí đi. Cứ kiểm tra cho thật chắc chắn.”
Cooper làm theo.
“Chất hóa dầu”, anh trả lời. “Được lọc qua loa, không có phụ gia... Đó là mạt sắt cùng với những vi lượng manganese, silicon và carbon.”
“Chờ chút”, Rhyme nói to. “Còn nguyên tố nào khác không – chromium, cobalt, đồng, nickel, tungsten?”
“Không.”
Rhyme đăm đăm nhìn lên trần nhà. “Kim loại à? Đó là thép cũ, được luyện từ gang ở một lò luyện Bessemer. Nếu là thép mới thì kiểu gì trong đó cũng phải có những nguyên tố như tôi vừa nói.”
“Còn cả cái này nữa đây. Nhựa than đá.”
“Creosote!” Rhyme reo lên. “Tôi hiểu rồi. Sai lầm nghiêm trọng đầu tiên của tên Vũ công. Đồng bọn của hắn là một tấm bản đồ di động.”
“Dẫn tới đâu?” Sachs hỏi.
“Tới tàu điện ngầm. Vết mỡ đó đã lâu năm, vụn thép cũng từ những thanh tà vẹt và đinh đóng đường ray cũ, chất creosote là từ những thanh tà vẹt. À, còn những mẩu gạch men là từ một tấm tranh khảm. Rất nhiều những nhà ga tàu điện ngầm cũ được ốp gạch men – trong đó có những bức tranh miêu tả khung cảnh gì đó liên quan đến từng khu vực.”
Sachs nói, “Đúng rồi – như ở ga Astor Place vẫn còn những bức khảm hình các loại động vật mà Jonh Jacob Astor đã từng mua bán”.
“Gạch gốm tráng men ốp tường. Vậy ra đó chính là lý do tên Vũ công cần đến gã này. Một nơi để lẩn trốn. Đồng bọn của tên Vũ công có thể là một gã vô gia cư nghiện ma túy sống ở đoạn đường tránh tàu, hay hầm ngầm, hoặc thậm chí là nhà ga cũ bỏ không ở đâu đó.”
Rhyme chợt nhận ra mọi người trong phòng đều đang quay ra nhìn bóng một người đàn ông hiện ra ở ngưỡng cửa. Anh cũng im bặt.
“Dellray?” Sellitto lúng túng lên tiếng.
Khuôn mặt tối sầm, u ám của Fred Dellray đang trân trân nhìn ra ngoài cửa sổ.
“Có chuyện gì thế?” Rhyme hỏi.
“Chuyện về Innelman. Họ đã khâu cho cậu ấy. Tất cả là hơn ba trăm mũi. Nhưng cũng đã quá muộn. Mất quá nhiều máu. Cậu ấy vừa mới qua đời.”
“Tôi rất tiếc”, Sachs nói.
Viên đặc vụ giơ hai cánh tay lên đầu chán nản, những ngón tay dài lòng khòng trông như những cái que nhọn hoắt.
Mọi người trong phòng đều biết về người cộng sự lâu năm của Dellray – người bị giết trong vụ đánh bom Tòa nhà Liên bang ở thành phố Oklahoma. Và Rhyme còn nghĩ đến Tony Panelli – bị bắt cóc ngay giữa trung tâm thành phố cách đây vài ngày. Có lẽ lúc này anh ta cũng đã chết, đầu mối duy nhất liên quan đến số phận tay đặc vụ xấu số là những hạt cát bí ẩn.
Và giờ đây lại một người bạn khác của Dellray đã ra đi.
Viên đặc vụ lồng lên đi đi lại lại trong phòng một cách đầy đe dọa.
“Mọi người có biết tại sao cậu ấy bị rạch khủng khiếp đến thế không – Innelman ấy?”
Tất cả đều biết; nhưng không ai trả lời.
“Một cách đánh lạc hướng. Đó là lý do duy nhất trên đời này. Để ngăn chúng ta bám theo hắn. Mọi người có tin được không? Một thủ đoạn đánh lạc hướng khốn kiếp.” Đột nhiên anh đứng sững lại. Anh chằm chằm nhìn Rhyme với đôi mắt đen ngòm đáng sợ của mình. “Tóm lại là anh đã có đầu mối nào chưa, Lincoln?”
“Không nhiều lắm.” Rhyme bắt đầu giải thích về người bạn vô gia cư của tên Vũ công, về các loại ma túy, cái xó xỉnh mà hắn đang náu mình trong đường tàu điện ngầm. Ở đâu đó.
“Thế thôi sao?”
“Tôi e là thế. Nhưng chúng ta vẫn còn một số bằng chứng cần xem xét tiếp.”
“Bằng chứng”, Dellray khẽ lầm bầm với vẻ khinh bỉ. Anh rảo bước ra cửa, rồi dừng lại. “Một thủ đoạn đánh lạc hướng. Đó đếch phải là lý do chó chết khiến một người tốt phải chết. Đếch phải là lý do gì hết.”
“Fred, khoan đã... chúng tôi cần anh.”
Nhưng viên đặc vụ không nghe thấy, hoặc có nghe thấy thì anh cũng phớt lờ lời gọi của Rhyme. Anh hầm hầm lao ra khỏi phòng.
Một lát sau cánh cửa dưới nhà đóng sập lại với một tiếng cạch lạnh lùng.