Chương : 22
Giờ thứ 24 của 45
Một mê cung.
Hệ thống tàu điện ngầm của thành phố New York trải dài hơn 250 dặm và bao hàm trong đó hơn một tá những đường hầm riêng lẻ chạy ngang dọc qua bốn trong tổng số năm quận của thành phố (chỉ trừ có quận Staten Island, mặc dù tất nhiên là người dân quận đảo này cũng có mạng lưới phà trứ danh của riêng mình).
Một vệ tinh có thể xác định được một chiếc thuyền buồm lênh đênh trên Bắc Đại Tây Dương trong khoảng thời gian còn nhanh hơn đội điều tra của Lincoln có thể lần ra hai người đàn ông ẩn náu trong hệ thống tàu điện ngầm của New York.
Nhà hình sự học, Sellito, Sachs và Cooper đang chúi mũi vào tấm bản đồ của hệ thống tàu điện ngầm được dán vội vàng trên tường trong phòng Lincoln Rhyme. Đôi mắt của Rhyme liếc nhanh qua những đường vẽ màu khác nhau tượng trưng cho vô số tuyến tàu điện ngầm, màu xanh lam cho khu Đại Lộ Tám, màu xanh lục cho khu Lextington, màu đỏ cho khu Broadway.
Rhyme có một mối quan hệ đặc biệt với hệ thống loằng ngoằng này. Chính trong hầm móng sâu của một công trường xây dựng đường tàu điện ngầm, một thanh rầm bằng gỗ sồi đã rơi xuống và đập nát cột sống của Rhyme – đúng lúc anh vừa kịp “À” một tiếng và nhoài người về phía trước để nhặt lên một sợi tơ, vàng óng như tóc một thiên thần, khỏi xác của một nạn nhân bị sát hại.
Nhưng thậm chí ngay từ trước khi xảy ra vụ tai nạn, những đường tàu điện ngầm vẫn luôn đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vựa khoa học hình sự của NYPD. Rhyme đã cần mẫn nghiên cứu chúng khi anh còn chỉ huy IRD: bởi vì chúng trải rộng qua rất nhiều địa hình và liên quan đến cơ man nào là các loại vật liệu xây dựng khác nhau suốt bao nhiêu năm, hầu như bao giờ cũng có thể tìm được mối liên hệ giữa một hung thủ với một tuyến tàu điện ngầm nhất định, nếu không phải khu vực hoặc nhà ga gần nơi hắn sống, chỉ cần căn cứ vào những bằng chứng vi lượng. Suốt bao năm ròng Rhyme đã thu thập rất nhiều mẫu vật trong các đường tàu điện ngầm – một số mẫu thậm chí còn có nguồn gốc từ nửa cuối thể kỷ XIX. (Vì chính giai đoạn những năm 1860 là thời điểm Alfred Beach, ông chủ bút của hai tờ New York Sun và Scientific American, quyết định áp dụng ý tưởng của mình về việc chuyển thư báo qua những đường ống khí nén vào việc vận chuyển người trong những đường hầm lớn hơn.)
Lúc này Rhyme ra lệnh cho máy tính của mình gọi tới một số điện thoại và giây lát sau anh đã được nối máy với Sam Hoddleston, chỉ huy bộ phận Cảnh sát giao thông. Cũng giống như Cảnh sát Khu vực dân cư, họ thuộc biên chế thường trực của cảnh sát thành phố New York, không khác gì NYPD, chỉ có điều lĩnh vực công tác và quản lý của họ là hệ thống giao thông trong thành phố. Hoddleston biết Rhyme từ ngày xưa, và trong khoảng im lặng đi kèm sau khi tự giới thiệu tên mình, Rhyme hình dung ra người ở đầu dây kia đang cố kiềm chế không tỏ ra sững sờ; Hoddleston, giống như phần lớn đồng nghiệp cũ của Rhyme, không hề biết rằng anh đã quay lại sau lần giáp mặt với tử thần.
“Chúng tôi có cần cho cắt điện ở một số tuyến đường không?”, Hoddleston hỏi sau khi Rhyme thông báo qua cho anh ta về tên Vũ công và đồng bọn của hắn. “Tiến hành một cuộc càn quét?”
Sellitto nghe thấy câu hỏi qua loa và quả quyết lắc đầu.
Rhyme cũng đồng tình. “Không, chúng tôi không muốn tự làm khó mình. Vả lại, tôi nghĩ hắn đang ẩn náu ở một khu vực bỏ hoang.”
“Cũng chẳng có nhiều nhà ga bỏ không đâu”, Hoddleston nói. “Nhưng có đến cả trăm đường rẽ, xưởng sửa chữa và khu vực làm việc cũ không còn dùng đến nữa. Mà này, Lincoln, anh thế nào rồi? Tôi…”
“Tốt, Sam ạ. Tôi ổn mà”, Rhyme nói dứt khoát, lảng tránh sự quan tâm của người khác như mọi khi. Rồi nói thêm, “Chúng tôi đang bàn – chúng tôi cho rằng có lẽ bọn chúng chỉ đi bộ thôi. Tránh xa những đoàn tàu. Vì vậy chúng tôi đoán bọn chúng vẫn đang trong khu Manhattan. Ở đây chúng tôi cũng đã có bản đồ rồi và chúng tôi sẽ cần đến sự giúp đỡ của anh để thu hẹp phạm vi tìm kiếm.”
“Bất kỳ điều gì tôi có thể làm”, người chỉ huy nói. Rhyme thậm chí còn không nhớ anh ta trông như thế nào. Căn cứ vào giọng nói thì có vẻ anh ta là một người khỏe mạnh và lực lưỡng, nhưng rồi Rhyme chợt nhớ ra ngay chính bản thân anh cũng có thể là một vận động viên Olympic đối với bất kỳ ai chỉ nghe tiếng chứ không nhìn thấy cơ thể tàn phế của anh.
Lúc này Rhyme xem xét nốt số bằng chứng còn lại mà Sachs đã tìm thấy trong tòa nhà ngay sát ngôi nhà an toàn – những bằng chứng do tên đồng bọn của tên Vũ công bỏ lại.
Anh nói với Hoddleston, “Chất đất này có thành phần ẩm rất cao và dính đầy những hạt cát thạch anh và khoáng chất fenspat”.
“Tôi nhớ rồi, lúc nào anh cũng mê mẩn với các loại đất của mình, Lincoln.”
“Đất cũng hữu ích lắm đấy”, anh nói rồi tiếp tục. “Có rất ít hạt đá và trong số đó không hạt nào nứt gãy hoặc sắc cạnh, không có đá vôi hoặc đá phiến mica Manhattan. Do đó chúng tôi sẽ tập trung vào khu Hạ. Và căn cứ vào những mẩu gỗ mục lâu đời, có lẽ là trong phạm vi gần với phố Canal.”
Ở phía bắc của phố Hai mươi bảy là nền đá cứng nằm sát với bề mặt khu Manhattan. Ở phía nam con phố này, bề mặt toàn là đất, cát, đất sét và đặc biệt là rất ẩm ướt. Nhiều năm trước khi các công nhân đào khoét khu này để làm đường hầm cho tàu điện ngầm, nền đất lõng bõng nước xung quanh phố Canal lần nào cũng làm cho hầm của họ bị ngập chìm trong nước. Cứ hai ngày một lần, toàn bộ công trình phải dừng lại để chờ bơm nước ra khỏi đường hầm và dùng gỗ gia cố cho các vách hầm, sau nhiều năm những cây gỗ ngày nào đã mục nát và tan vào đất.
Hoddleston không lấy gì làm lạc quan. Anh giải thích rằng mặc dù thông tin của Rhyme đã thu hẹp được diện tích địa lý, nhưng vẫn còn đến hàng chục đường hầm chạy chằng chịt, những sân ga chuyển tiếp đi kèm và ngay nhiều khu vực của chính các nhà ga cũng đã bị đóng cửa sau ngần ấy năm hoạt động. Một số nhà ga đã bị niêm phong và quên lãng không khác gì những ngôi mộ thời Ai Cập cổ đại. Nhiều năm sau khi Alfred Beach qua đời, trong khi xây dựng một tuyến tàu điện ngầm mới, các công nhân đã đục xuyên qua một vách tường và phát hiện ra đường hầm cũ của ông trước kia, đã bị bỏ đi từ lâu, nhưng vẫn còn nguyên nhà chờ sang trọng, trong đó còn có cả những bức bích hoạ, một cây dương cầm lớn, thậm chí còn nguyên cả một bể cá vàng.
“Liệu có khả năng hắn chỉ ngủ tạm trong các nhà ga đang hoạt động hoặc trong một đoạn hầm nào đó giữa các nhà ga không?” Hoddleston hỏi.
Sellitto lắc đầu. “Như vậy không ăn khớp với chân dung của hắn. Tên này nghiện ma túy. Chắc chắn hắn sẽ phải có một nơi giấu thuốc cố định.”
Rồi Rhyme kể cho Hoddleston về tấm khảm màu ngọc lam.
“Không thể biết được cái đó ở đâu ra, Lincoln. Chúng tôi đã cho ốp lại không biết bao nhiêu gỗ, bụi gạch men cũ và vữa rải ra khắp mọi nơi. Ai mà biết được hắn dính phải những thứ đó ở đâu chứ.”
“Vậy cứ cho tôi một con số đi, ông bạn”, Rhyme nói. “Tóm lại là chúng tôi sẽ phải tìm kiếm ở bao nhiêu điểm đây?”
“Theo tôi tính thì phải đến hai mươi địa điểm”, giọng nói ồm ồm của Hoddleston đáp lại. “Có thể là ít hơn một chút.”
“Ôi chao ôi”, Rhyme lầm bầm. “Thôi được, hãy fax cho chúng tôi danh sách những điểm có khả năng cao nhất vậy.”
“Được rồi. Khi nào anh cần nó đấy?” Nhưng trước khi Rhyme kịp trả lời, Hoddleston đã nói, “Thôi, tôi biết rồi. Tôi nhớ chắc anh vẫn như ngày trước thôi, Lincoln. Anh muốn có nó từ hôm qua kia.”
“Tuần trước chứ”, Rhyme nói đùa, sốt ruột khi thấy tay chỉ huy vẫn đang cợt nhả chứ chưa bắt tay vào viết lách gì cả.
Năm phút sau tín hiệu tít tít vang lên từ máy fax. Thom đặt tờ giấy ngay trước mặt Rhyme. Trong đó liệt kê mười lăm địa điểm trong hệ thống tàu điện ngầm. “Được rồi, Sachs, bắt đầu thôi.”
Cô gật đầu trong khi Sellitto gọi điện yêu cầu Haumann và Dellray triển khai các đội S&S sẵn sàng. Rhyme nói thêm với vẻ dứt khoát, “Amelia, cô phải ở nguyên phía sau đấy, hiểu chứ? Cô là chuyên viên khám nghiệm hiện trường, nhớ chưa? Chỉ khám nghiệm hiện trường thôi đấy”.
Trên một góc hè phố mạn Hạ Manhattan, Leon Cò Mồi đang ngồi ngáp vặt. Bên cạnh hắn là Người Gấu – hắn mang cái biệt danh như vậy vì hắn chuyên đẩy một chiếc xe mua hàng chất đủ các loại thú nhồi bông, có lẽ là để bán, mặc dù chỉ có những ông bố bà mẹ thần kinh mới đi mua một trong những thứ đồ chơi bé tí, bẩn thỉu và nát bươm này cho con mình.
Leon và Người Gấu sống chung với nhau – có nghĩa là chúng cùng chia sẻ một con hẻm gần khu China town[90]– và vất vưởng qua ngày nhờ những chai bia thừa, của bố thí và thỉnh thoảng giở thêm vài ngón trộm cắp vặt vô hại.
“Ê, mày ơi, nó chết đến nơi rồi kìa”, Leon nói.
“Trời ơi, nếu thế thì thật là ác mộng”, Người Gấu đáp, tay vẫn không quên lắc lư chiếc xe đẩy mua hàng của hắn như thể đang cố dỗ dành cho lũ gấu của mình ngủ ngoan.
“Bọn mình đành tốn vài xu, gọi cho xe cấp cứu tới đây thôi.”
Leon và Người Gấu đang nhìn sang bên kia đường, trong một con hẻm khác. Nằm co quắp trong đó là một người đàn ông vô gia cư khác, người da đen và trông có vẻ bệnh hoạn, bộ mặt méo mó và tiều tụy – mặc dù ngay lúc này có vẻ gã đang bất tỉnh. Quần áo của gã rách bươm như xơ mướp.
“Phải gọi cho ai đó.”
“Mình sang xem thế nào.”
Chúng băng qua phố, rón rén như những con chuột.
Người đàn ông gầy trơ xương – có lẽ là bị bệnh AIDS, điều đó mách bảo chúng rằng có thể gã này chích hàng trắng – và hôi thối. Ngay cả Leon và Người Gấu thỉnh thoảng cũng còn tắm rửa ở đài phun nước trong Công viên Quảng trường Washington hoặc trong cái hồ nhỏ trong Công viên Trung tâm, bất chấp lũ rùa. Gã này mặc cái quần jean rách tả tơi, đi tất bẩn, không có giày, chiếc áo khoác rách nát, hôi hám có in dòng chữ, Cats… The Musical.
Chú thích
[90]China Town: Khu phố của người Trung Quốc ở New York.
Chúng chăm chú nhìn gã hồi lâu. Khi Leon ngập ngừng chạm thửvào chân Cats, gã này mở choàng mắt và ngồi bật dậy, làm hai tên sợcứng người bằng một ánh mắt quái đản. “Chúng mày là lũ chó chết nào hả? Chúng mày là lũ chó chết nào hả?”
“Ê, anh bạn, có sao không?” Chúng thận trọng lùi lại một chút.
Cats run lẩy bẩy, hai tay ôm chặt lấy bụng. Gã ho một tràng dài và Leon thì thầm, “Trông nó tởm bỏ mẹ, như thằng sắp chết ấy chứ còn ốm đau gì nữa, mày có nghĩ thế không?”.
“Nó ghê quá. Bọn mình đi đi.” Người Gấu chỉ muốn quay lại với chiếc xe đẩy mua hàng A&P của mình.
“Cứu tôi với”, Cats rên rỉ. “Tôi đau lắm, ối làng nước ơi.”
“Có một bệnh viện ở bên kia…”
“Tao đếch vào bệnh viện được”, Cats gầm lên, như thể bọn chúng vừa xúc phạm gã vậy.
Vậy là gã này từng có tiền án, mà trên đường phố thì từ chối không vào bệnh viện khi bị ốmđến mức này có nghĩa là anh phải có tiền án nghiêm trọng. Có lẽ là lệnh truy nã tội phạm đặc biệt cũng nên. Hẳn thế, dính phải thằng này là rắc rối to rồi.
“Tao cần có thuốc. Bọn mày có không? Tao sẽ trả tiền. Tao có xèng đây.”
Điều đó thì đừng hòng bắt chúng tin thực tế rằng Cats là một thằng bới rác. Mà chúng cũng có thể thấy rằng gã lại còn bới rác thành thần ấy chứ. Bên cạnh gã là một túi to bự chảng những vỏ lon bia và soda mà gã đã moi móc được từ những thùng rác. Leon thèm thuồng nhìn chiếc túi. Chắc phải mất đến hai ngày mới tích cóp được ngần ấy vỏ lon. Đáng giá khoảng ba mươi đô la, có khi là bốn mươi ấy chứ.
“Bọn này không có gì cả. Bọn này không chuyên hàng đó. Ý tôi là hàng trắng ấy.”
“Chắc ý nó là thuốc chữa bệnh cơ mà.”
“Anh có muốn vài chai không? T-bird nhé. Tôi có mấy chai Thunderbird ra tròđây này, thưa quý anh. Sẵn sàng đổi cho anh lấy đống vỏ lon…”
Cats run rẩy cố chống tay để nhổm người lên. “Tao đếch cần mấy cái chai chết tiệt của mày. Tao bị chúng nó đánh. Mấy thằng ranh con, bọn nó nện tao. Bọn nó làm dập cái gì đó bên trong hay sao ấy. Tao thấy khác thường lắm. Tao cần thuốc. Không phải tài mà, hàng trắng hay cái thứ T-bird khốn nạn của mày. Tao cần thứ gì đó làm tao hết đau. Tao cần thuốc!” Gã lồm cồm đứng dậy và loạng choạng như chực đổ nhào về phía Người Gấu.
“Không có gì đâu, anh bạn. Bọn này chẳng có gì đâu.”
“Tao đang hỏi chúng mày lần cuối cùng đấy, bọn mày có định cho tao thứ gì đó không thì bảo?” Gã rên rỉ ôm lấy một bên sườn. Hai gã vô gia cư biết là có những thằng nghiện nhiều khi khỏe như ma điên. Mà thằng cha này lại còn to xác nữa chứ. Hắn có thể bẻ chúng ra làm đôi, dễ như ăn kẹo.
Leon thì thào với Người Gấu, “Này, cái thằng hôm trước ấy?”.
Người Gấu gật đầu lia lịa, mặc dù hắn đang sợ đến vãi linh hồn và chẳng nhớ quái gì cả. Hắn không hề biết Leon đang nói đến thằng cha chết dẫm nào nữa.
Leon nói tiếp, “Có một thằng hôm trước còn gì? Mới hôm qua thôi chứ đâu, nó còn định bán cho tao với mày mấy cái thứ cứt đái. Thuốc ấy. Rất nhiệt tình mời mọc”.
“Đúng rồi, rất nhiệt tình mời mọc”, Người Gấu vội vàng phụ họa, như thể việc hắn chứng thực câu chuyện sẽ làm cho Cats bình tĩnh lại.
“Hắn đếch quan tâm khách hàng là ai. Chỉ bán thuốc thôi. Không phải tài mà, không phải hàng trắng, không phải bồ đà. Chỉ là thuốc an thần, giảm đau tổng hợp, đủ các loại.”
“Đúng, đủ các loại.”
“Tao có tiền.” Cats lục lọi trong túi áo bẩn thỉu của gã rồi rút hai, ba tờ hai mươi đô nhàu nát. “Bọn mày thấy chưa? Thế cái thằng chó chết ấy rúc ở xó nào?”
“Ở đằng mạn gần Tọa thị chính thành phố. Ga tàu điện ngầm cũ…”
“Tao bị ốm, lũ khốn kia. Tao bị chúng nó nện nhừ tử. Tại sao bọn nó lại đánh tao? Tao có làm gì đâu? Tao chỉ nhặt nhạnh mấy cái vỏ lon. Thế mà, chúng mày nhìn xem. Chó chết. Tên nó là gì?”
“Tôi không biết”, Người Gấu lắp bắp, trán hắn nhăn nhúm như thể đang suy nghĩ dữ dội lắm. “Không, chờ chút. Hôm đấy nó có nói cái tên gì đấy.”
“Tao không nhớ.”
“Mày có nhớ… Nó còn xem mấy con gấu của mày mà.”
“À, nó có nói gì đấy. Đúng rồi, nhớ rồi. Nó bảo tên nó là Joe hay đại loại thế. Có lẽ là Jodie.”
“Ừ, đúng rồi đấy. Tao nhớ rồi.”
“Jodie”, Cats nhắc lại, rồi giống tay lên quệt trán. “Tao sẽ đi tìm nó. Lũ khốn nạn. Tao cần thứ gìđó. Tao ốm lắm rồi. Lũ chó. Đ… mẹ chúng nó. Tao đau lắm. Đ… mẹ bọn mày nữa.”
Khi Cats đã lảo đảo bỏ đi, hết rên rỉ lại lẩm bẩm chửi rủa một mình, không quên kéo lê túi vỏlon phía sau lưng, Leon và Người Gấu quay lại góc phố của mình và ngồi phịch xuống. Leon mở một chai bia Voodoo và cả hai cùng uống.
“Lẽ ra bọn mình không nên làm khó thằng kia như thế”, hắn nói.
“Thằng nào?”
“Jodie ấy, mà tên nó là gì cũng mặc mẹ.”
“Thế mày muốn thằng mọi chó chết lởn vởn ở đây à?”, Người Gấu hỏi. “Nó nguy hiểm lắm. Nó làm tao sợ phát khiếp. Mày muốn nó cứ lởn vởn ở đây chắc?”
“Tất nhiên là không. Nhưng mà, mày biết đấy.”
“Ừ, nhưng…”
“Mày biết mà, bồ tèo.”
“Ừ, tao biết. Đưa tao cái chai.”
Một mê cung.
Hệ thống tàu điện ngầm của thành phố New York trải dài hơn 250 dặm và bao hàm trong đó hơn một tá những đường hầm riêng lẻ chạy ngang dọc qua bốn trong tổng số năm quận của thành phố (chỉ trừ có quận Staten Island, mặc dù tất nhiên là người dân quận đảo này cũng có mạng lưới phà trứ danh của riêng mình).
Một vệ tinh có thể xác định được một chiếc thuyền buồm lênh đênh trên Bắc Đại Tây Dương trong khoảng thời gian còn nhanh hơn đội điều tra của Lincoln có thể lần ra hai người đàn ông ẩn náu trong hệ thống tàu điện ngầm của New York.
Nhà hình sự học, Sellito, Sachs và Cooper đang chúi mũi vào tấm bản đồ của hệ thống tàu điện ngầm được dán vội vàng trên tường trong phòng Lincoln Rhyme. Đôi mắt của Rhyme liếc nhanh qua những đường vẽ màu khác nhau tượng trưng cho vô số tuyến tàu điện ngầm, màu xanh lam cho khu Đại Lộ Tám, màu xanh lục cho khu Lextington, màu đỏ cho khu Broadway.
Rhyme có một mối quan hệ đặc biệt với hệ thống loằng ngoằng này. Chính trong hầm móng sâu của một công trường xây dựng đường tàu điện ngầm, một thanh rầm bằng gỗ sồi đã rơi xuống và đập nát cột sống của Rhyme – đúng lúc anh vừa kịp “À” một tiếng và nhoài người về phía trước để nhặt lên một sợi tơ, vàng óng như tóc một thiên thần, khỏi xác của một nạn nhân bị sát hại.
Nhưng thậm chí ngay từ trước khi xảy ra vụ tai nạn, những đường tàu điện ngầm vẫn luôn đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vựa khoa học hình sự của NYPD. Rhyme đã cần mẫn nghiên cứu chúng khi anh còn chỉ huy IRD: bởi vì chúng trải rộng qua rất nhiều địa hình và liên quan đến cơ man nào là các loại vật liệu xây dựng khác nhau suốt bao nhiêu năm, hầu như bao giờ cũng có thể tìm được mối liên hệ giữa một hung thủ với một tuyến tàu điện ngầm nhất định, nếu không phải khu vực hoặc nhà ga gần nơi hắn sống, chỉ cần căn cứ vào những bằng chứng vi lượng. Suốt bao năm ròng Rhyme đã thu thập rất nhiều mẫu vật trong các đường tàu điện ngầm – một số mẫu thậm chí còn có nguồn gốc từ nửa cuối thể kỷ XIX. (Vì chính giai đoạn những năm 1860 là thời điểm Alfred Beach, ông chủ bút của hai tờ New York Sun và Scientific American, quyết định áp dụng ý tưởng của mình về việc chuyển thư báo qua những đường ống khí nén vào việc vận chuyển người trong những đường hầm lớn hơn.)
Lúc này Rhyme ra lệnh cho máy tính của mình gọi tới một số điện thoại và giây lát sau anh đã được nối máy với Sam Hoddleston, chỉ huy bộ phận Cảnh sát giao thông. Cũng giống như Cảnh sát Khu vực dân cư, họ thuộc biên chế thường trực của cảnh sát thành phố New York, không khác gì NYPD, chỉ có điều lĩnh vực công tác và quản lý của họ là hệ thống giao thông trong thành phố. Hoddleston biết Rhyme từ ngày xưa, và trong khoảng im lặng đi kèm sau khi tự giới thiệu tên mình, Rhyme hình dung ra người ở đầu dây kia đang cố kiềm chế không tỏ ra sững sờ; Hoddleston, giống như phần lớn đồng nghiệp cũ của Rhyme, không hề biết rằng anh đã quay lại sau lần giáp mặt với tử thần.
“Chúng tôi có cần cho cắt điện ở một số tuyến đường không?”, Hoddleston hỏi sau khi Rhyme thông báo qua cho anh ta về tên Vũ công và đồng bọn của hắn. “Tiến hành một cuộc càn quét?”
Sellitto nghe thấy câu hỏi qua loa và quả quyết lắc đầu.
Rhyme cũng đồng tình. “Không, chúng tôi không muốn tự làm khó mình. Vả lại, tôi nghĩ hắn đang ẩn náu ở một khu vực bỏ hoang.”
“Cũng chẳng có nhiều nhà ga bỏ không đâu”, Hoddleston nói. “Nhưng có đến cả trăm đường rẽ, xưởng sửa chữa và khu vực làm việc cũ không còn dùng đến nữa. Mà này, Lincoln, anh thế nào rồi? Tôi…”
“Tốt, Sam ạ. Tôi ổn mà”, Rhyme nói dứt khoát, lảng tránh sự quan tâm của người khác như mọi khi. Rồi nói thêm, “Chúng tôi đang bàn – chúng tôi cho rằng có lẽ bọn chúng chỉ đi bộ thôi. Tránh xa những đoàn tàu. Vì vậy chúng tôi đoán bọn chúng vẫn đang trong khu Manhattan. Ở đây chúng tôi cũng đã có bản đồ rồi và chúng tôi sẽ cần đến sự giúp đỡ của anh để thu hẹp phạm vi tìm kiếm.”
“Bất kỳ điều gì tôi có thể làm”, người chỉ huy nói. Rhyme thậm chí còn không nhớ anh ta trông như thế nào. Căn cứ vào giọng nói thì có vẻ anh ta là một người khỏe mạnh và lực lưỡng, nhưng rồi Rhyme chợt nhớ ra ngay chính bản thân anh cũng có thể là một vận động viên Olympic đối với bất kỳ ai chỉ nghe tiếng chứ không nhìn thấy cơ thể tàn phế của anh.
Lúc này Rhyme xem xét nốt số bằng chứng còn lại mà Sachs đã tìm thấy trong tòa nhà ngay sát ngôi nhà an toàn – những bằng chứng do tên đồng bọn của tên Vũ công bỏ lại.
Anh nói với Hoddleston, “Chất đất này có thành phần ẩm rất cao và dính đầy những hạt cát thạch anh và khoáng chất fenspat”.
“Tôi nhớ rồi, lúc nào anh cũng mê mẩn với các loại đất của mình, Lincoln.”
“Đất cũng hữu ích lắm đấy”, anh nói rồi tiếp tục. “Có rất ít hạt đá và trong số đó không hạt nào nứt gãy hoặc sắc cạnh, không có đá vôi hoặc đá phiến mica Manhattan. Do đó chúng tôi sẽ tập trung vào khu Hạ. Và căn cứ vào những mẩu gỗ mục lâu đời, có lẽ là trong phạm vi gần với phố Canal.”
Ở phía bắc của phố Hai mươi bảy là nền đá cứng nằm sát với bề mặt khu Manhattan. Ở phía nam con phố này, bề mặt toàn là đất, cát, đất sét và đặc biệt là rất ẩm ướt. Nhiều năm trước khi các công nhân đào khoét khu này để làm đường hầm cho tàu điện ngầm, nền đất lõng bõng nước xung quanh phố Canal lần nào cũng làm cho hầm của họ bị ngập chìm trong nước. Cứ hai ngày một lần, toàn bộ công trình phải dừng lại để chờ bơm nước ra khỏi đường hầm và dùng gỗ gia cố cho các vách hầm, sau nhiều năm những cây gỗ ngày nào đã mục nát và tan vào đất.
Hoddleston không lấy gì làm lạc quan. Anh giải thích rằng mặc dù thông tin của Rhyme đã thu hẹp được diện tích địa lý, nhưng vẫn còn đến hàng chục đường hầm chạy chằng chịt, những sân ga chuyển tiếp đi kèm và ngay nhiều khu vực của chính các nhà ga cũng đã bị đóng cửa sau ngần ấy năm hoạt động. Một số nhà ga đã bị niêm phong và quên lãng không khác gì những ngôi mộ thời Ai Cập cổ đại. Nhiều năm sau khi Alfred Beach qua đời, trong khi xây dựng một tuyến tàu điện ngầm mới, các công nhân đã đục xuyên qua một vách tường và phát hiện ra đường hầm cũ của ông trước kia, đã bị bỏ đi từ lâu, nhưng vẫn còn nguyên nhà chờ sang trọng, trong đó còn có cả những bức bích hoạ, một cây dương cầm lớn, thậm chí còn nguyên cả một bể cá vàng.
“Liệu có khả năng hắn chỉ ngủ tạm trong các nhà ga đang hoạt động hoặc trong một đoạn hầm nào đó giữa các nhà ga không?” Hoddleston hỏi.
Sellitto lắc đầu. “Như vậy không ăn khớp với chân dung của hắn. Tên này nghiện ma túy. Chắc chắn hắn sẽ phải có một nơi giấu thuốc cố định.”
Rồi Rhyme kể cho Hoddleston về tấm khảm màu ngọc lam.
“Không thể biết được cái đó ở đâu ra, Lincoln. Chúng tôi đã cho ốp lại không biết bao nhiêu gỗ, bụi gạch men cũ và vữa rải ra khắp mọi nơi. Ai mà biết được hắn dính phải những thứ đó ở đâu chứ.”
“Vậy cứ cho tôi một con số đi, ông bạn”, Rhyme nói. “Tóm lại là chúng tôi sẽ phải tìm kiếm ở bao nhiêu điểm đây?”
“Theo tôi tính thì phải đến hai mươi địa điểm”, giọng nói ồm ồm của Hoddleston đáp lại. “Có thể là ít hơn một chút.”
“Ôi chao ôi”, Rhyme lầm bầm. “Thôi được, hãy fax cho chúng tôi danh sách những điểm có khả năng cao nhất vậy.”
“Được rồi. Khi nào anh cần nó đấy?” Nhưng trước khi Rhyme kịp trả lời, Hoddleston đã nói, “Thôi, tôi biết rồi. Tôi nhớ chắc anh vẫn như ngày trước thôi, Lincoln. Anh muốn có nó từ hôm qua kia.”
“Tuần trước chứ”, Rhyme nói đùa, sốt ruột khi thấy tay chỉ huy vẫn đang cợt nhả chứ chưa bắt tay vào viết lách gì cả.
Năm phút sau tín hiệu tít tít vang lên từ máy fax. Thom đặt tờ giấy ngay trước mặt Rhyme. Trong đó liệt kê mười lăm địa điểm trong hệ thống tàu điện ngầm. “Được rồi, Sachs, bắt đầu thôi.”
Cô gật đầu trong khi Sellitto gọi điện yêu cầu Haumann và Dellray triển khai các đội S&S sẵn sàng. Rhyme nói thêm với vẻ dứt khoát, “Amelia, cô phải ở nguyên phía sau đấy, hiểu chứ? Cô là chuyên viên khám nghiệm hiện trường, nhớ chưa? Chỉ khám nghiệm hiện trường thôi đấy”.
Trên một góc hè phố mạn Hạ Manhattan, Leon Cò Mồi đang ngồi ngáp vặt. Bên cạnh hắn là Người Gấu – hắn mang cái biệt danh như vậy vì hắn chuyên đẩy một chiếc xe mua hàng chất đủ các loại thú nhồi bông, có lẽ là để bán, mặc dù chỉ có những ông bố bà mẹ thần kinh mới đi mua một trong những thứ đồ chơi bé tí, bẩn thỉu và nát bươm này cho con mình.
Leon và Người Gấu sống chung với nhau – có nghĩa là chúng cùng chia sẻ một con hẻm gần khu China town[90]– và vất vưởng qua ngày nhờ những chai bia thừa, của bố thí và thỉnh thoảng giở thêm vài ngón trộm cắp vặt vô hại.
“Ê, mày ơi, nó chết đến nơi rồi kìa”, Leon nói.
“Trời ơi, nếu thế thì thật là ác mộng”, Người Gấu đáp, tay vẫn không quên lắc lư chiếc xe đẩy mua hàng của hắn như thể đang cố dỗ dành cho lũ gấu của mình ngủ ngoan.
“Bọn mình đành tốn vài xu, gọi cho xe cấp cứu tới đây thôi.”
Leon và Người Gấu đang nhìn sang bên kia đường, trong một con hẻm khác. Nằm co quắp trong đó là một người đàn ông vô gia cư khác, người da đen và trông có vẻ bệnh hoạn, bộ mặt méo mó và tiều tụy – mặc dù ngay lúc này có vẻ gã đang bất tỉnh. Quần áo của gã rách bươm như xơ mướp.
“Phải gọi cho ai đó.”
“Mình sang xem thế nào.”
Chúng băng qua phố, rón rén như những con chuột.
Người đàn ông gầy trơ xương – có lẽ là bị bệnh AIDS, điều đó mách bảo chúng rằng có thể gã này chích hàng trắng – và hôi thối. Ngay cả Leon và Người Gấu thỉnh thoảng cũng còn tắm rửa ở đài phun nước trong Công viên Quảng trường Washington hoặc trong cái hồ nhỏ trong Công viên Trung tâm, bất chấp lũ rùa. Gã này mặc cái quần jean rách tả tơi, đi tất bẩn, không có giày, chiếc áo khoác rách nát, hôi hám có in dòng chữ, Cats… The Musical.
Chú thích
[90]China Town: Khu phố của người Trung Quốc ở New York.
Chúng chăm chú nhìn gã hồi lâu. Khi Leon ngập ngừng chạm thửvào chân Cats, gã này mở choàng mắt và ngồi bật dậy, làm hai tên sợcứng người bằng một ánh mắt quái đản. “Chúng mày là lũ chó chết nào hả? Chúng mày là lũ chó chết nào hả?”
“Ê, anh bạn, có sao không?” Chúng thận trọng lùi lại một chút.
Cats run lẩy bẩy, hai tay ôm chặt lấy bụng. Gã ho một tràng dài và Leon thì thầm, “Trông nó tởm bỏ mẹ, như thằng sắp chết ấy chứ còn ốm đau gì nữa, mày có nghĩ thế không?”.
“Nó ghê quá. Bọn mình đi đi.” Người Gấu chỉ muốn quay lại với chiếc xe đẩy mua hàng A&P của mình.
“Cứu tôi với”, Cats rên rỉ. “Tôi đau lắm, ối làng nước ơi.”
“Có một bệnh viện ở bên kia…”
“Tao đếch vào bệnh viện được”, Cats gầm lên, như thể bọn chúng vừa xúc phạm gã vậy.
Vậy là gã này từng có tiền án, mà trên đường phố thì từ chối không vào bệnh viện khi bị ốmđến mức này có nghĩa là anh phải có tiền án nghiêm trọng. Có lẽ là lệnh truy nã tội phạm đặc biệt cũng nên. Hẳn thế, dính phải thằng này là rắc rối to rồi.
“Tao cần có thuốc. Bọn mày có không? Tao sẽ trả tiền. Tao có xèng đây.”
Điều đó thì đừng hòng bắt chúng tin thực tế rằng Cats là một thằng bới rác. Mà chúng cũng có thể thấy rằng gã lại còn bới rác thành thần ấy chứ. Bên cạnh gã là một túi to bự chảng những vỏ lon bia và soda mà gã đã moi móc được từ những thùng rác. Leon thèm thuồng nhìn chiếc túi. Chắc phải mất đến hai ngày mới tích cóp được ngần ấy vỏ lon. Đáng giá khoảng ba mươi đô la, có khi là bốn mươi ấy chứ.
“Bọn này không có gì cả. Bọn này không chuyên hàng đó. Ý tôi là hàng trắng ấy.”
“Chắc ý nó là thuốc chữa bệnh cơ mà.”
“Anh có muốn vài chai không? T-bird nhé. Tôi có mấy chai Thunderbird ra tròđây này, thưa quý anh. Sẵn sàng đổi cho anh lấy đống vỏ lon…”
Cats run rẩy cố chống tay để nhổm người lên. “Tao đếch cần mấy cái chai chết tiệt của mày. Tao bị chúng nó đánh. Mấy thằng ranh con, bọn nó nện tao. Bọn nó làm dập cái gì đó bên trong hay sao ấy. Tao thấy khác thường lắm. Tao cần thuốc. Không phải tài mà, hàng trắng hay cái thứ T-bird khốn nạn của mày. Tao cần thứ gì đó làm tao hết đau. Tao cần thuốc!” Gã lồm cồm đứng dậy và loạng choạng như chực đổ nhào về phía Người Gấu.
“Không có gì đâu, anh bạn. Bọn này chẳng có gì đâu.”
“Tao đang hỏi chúng mày lần cuối cùng đấy, bọn mày có định cho tao thứ gì đó không thì bảo?” Gã rên rỉ ôm lấy một bên sườn. Hai gã vô gia cư biết là có những thằng nghiện nhiều khi khỏe như ma điên. Mà thằng cha này lại còn to xác nữa chứ. Hắn có thể bẻ chúng ra làm đôi, dễ như ăn kẹo.
Leon thì thào với Người Gấu, “Này, cái thằng hôm trước ấy?”.
Người Gấu gật đầu lia lịa, mặc dù hắn đang sợ đến vãi linh hồn và chẳng nhớ quái gì cả. Hắn không hề biết Leon đang nói đến thằng cha chết dẫm nào nữa.
Leon nói tiếp, “Có một thằng hôm trước còn gì? Mới hôm qua thôi chứ đâu, nó còn định bán cho tao với mày mấy cái thứ cứt đái. Thuốc ấy. Rất nhiệt tình mời mọc”.
“Đúng rồi, rất nhiệt tình mời mọc”, Người Gấu vội vàng phụ họa, như thể việc hắn chứng thực câu chuyện sẽ làm cho Cats bình tĩnh lại.
“Hắn đếch quan tâm khách hàng là ai. Chỉ bán thuốc thôi. Không phải tài mà, không phải hàng trắng, không phải bồ đà. Chỉ là thuốc an thần, giảm đau tổng hợp, đủ các loại.”
“Đúng, đủ các loại.”
“Tao có tiền.” Cats lục lọi trong túi áo bẩn thỉu của gã rồi rút hai, ba tờ hai mươi đô nhàu nát. “Bọn mày thấy chưa? Thế cái thằng chó chết ấy rúc ở xó nào?”
“Ở đằng mạn gần Tọa thị chính thành phố. Ga tàu điện ngầm cũ…”
“Tao bị ốm, lũ khốn kia. Tao bị chúng nó nện nhừ tử. Tại sao bọn nó lại đánh tao? Tao có làm gì đâu? Tao chỉ nhặt nhạnh mấy cái vỏ lon. Thế mà, chúng mày nhìn xem. Chó chết. Tên nó là gì?”
“Tôi không biết”, Người Gấu lắp bắp, trán hắn nhăn nhúm như thể đang suy nghĩ dữ dội lắm. “Không, chờ chút. Hôm đấy nó có nói cái tên gì đấy.”
“Tao không nhớ.”
“Mày có nhớ… Nó còn xem mấy con gấu của mày mà.”
“À, nó có nói gì đấy. Đúng rồi, nhớ rồi. Nó bảo tên nó là Joe hay đại loại thế. Có lẽ là Jodie.”
“Ừ, đúng rồi đấy. Tao nhớ rồi.”
“Jodie”, Cats nhắc lại, rồi giống tay lên quệt trán. “Tao sẽ đi tìm nó. Lũ khốn nạn. Tao cần thứ gìđó. Tao ốm lắm rồi. Lũ chó. Đ… mẹ chúng nó. Tao đau lắm. Đ… mẹ bọn mày nữa.”
Khi Cats đã lảo đảo bỏ đi, hết rên rỉ lại lẩm bẩm chửi rủa một mình, không quên kéo lê túi vỏlon phía sau lưng, Leon và Người Gấu quay lại góc phố của mình và ngồi phịch xuống. Leon mở một chai bia Voodoo và cả hai cùng uống.
“Lẽ ra bọn mình không nên làm khó thằng kia như thế”, hắn nói.
“Thằng nào?”
“Jodie ấy, mà tên nó là gì cũng mặc mẹ.”
“Thế mày muốn thằng mọi chó chết lởn vởn ở đây à?”, Người Gấu hỏi. “Nó nguy hiểm lắm. Nó làm tao sợ phát khiếp. Mày muốn nó cứ lởn vởn ở đây chắc?”
“Tất nhiên là không. Nhưng mà, mày biết đấy.”
“Ừ, nhưng…”
“Mày biết mà, bồ tèo.”
“Ừ, tao biết. Đưa tao cái chai.”