Chương : 28
Giờ thứ 29 của 45
Mục tiêu mà nhà hình sự học của chúng ta hướng đến lúc này là sự đặc tính hóa.
Tức là quá trình truy nguyên ra nguồn gốc duy nhất của một bằng chứng cụ thể, loại bỏ hoàn toàn tất cả những nguồn gốc phái sinh khác.
Lúc này đây Lincoln Rhyme đang chăm chú theo dõi bằng chứng cá biệt nhất mà anh có: vết máu từ cơ thể của tên Vũ công. Một xét nghiệm ADN đối với tế bào bạch cầu đa hình thể có thể giúp anh hầu như loại bỏ hoàn toàn khả năng vết máu này là của bất kỳ ai khác.
Mặc dù vậy bằng chứng này cũng không giúp anh biết thêm được gì nhiều. CODIS – Hệ thống thông tin ADN lưu giữ trên máy tính – có chứa thông tin về mẫu máu của những đối tượng từng có tiền án, tiền sự, nhưng dù sao nó cũng chỉ là một cơ sở dữ liệu còn rất hạn chế, chủ yếu lưu giữ mẫu máu của những tên tội phạm tình dục và một số ít những tội phạm hình sự nghiêm trọng. Rhyme không hề ngạc nhiên khi việc đối chiếu mẫu máu của tên Vũ công với cơ sở dữ liệu này không mang lại kết quả gì.
Tuy nhiên Rhyme vẫn ít nhiều hài lòng vì giờ đây họ đã có một phần nhỏ của cơ thể tên giết người, bị thấm vào gạc và nhét vào trong ống nghiệm. Đối với hầu hết các chuyên gia hình sự học, thường thì lúc nào hung thủ cũng đang “ở ngoài kia”; anh hiếm khi nhìn thấy chúng bằng xương bằng thịt, thậm chí có khi còn không bao giờ gặp chúng trừ khi là phải ra tòa làm chứng. Đó là lý do tại sao lúc này đây Rhyme đang cảm thấy nỗi phấn khích thầm kín trước sự hiện diện của kẻ đã gây ra cho rất nhiều người, trong đó có cả anh, biết bao nhiêu là khó khăn, đau khổ.
“Cô còn tìm thấy những gì nữa?”, anh hỏi Sachs.
Cô đã dùng máy hút bụi trong phòng của Brit Hale để tìm kiếm bằng chứng, nhưng đến lúc này cả cô và Cooper đều đã dùng kính lúp và kính hiển vi kiểm tra qua tất cả nhưng không tìm thấy gì ngoài dư chất thuốc súng cùng những mảnh vỡ li ti của đầu đạn cùng những mẩu gạch và sơn tường rơi ra do bị đạn bắn trúng.
Cô cũng tìm thấy vỏ đạn của khẩu súng ngắn bán tự động mà hắn đã sử dụng. Vũ khí của hắn là một khẩu Beretta 7,62 milimét. Có lẽ đó là một khẩu súng đã cũ; vỏ đạn có những vết xước đặc trưng. Những vỏ đạn này, được Sachs thu thập không thiếu cái nào, đều đã bị nhúng vào dung dịch tẩy rửa cực mạnh để loại bỏ ngay cả dấu vân tay của công nhân nhà máy sản xuất đạn – hắn làm vậy để không ai có thể lần ra số đạn này được sản xuất trong một ca làm việc cụ thể tại một trong những nhà máy của hãng Remington trước khi được vận chuyển tới một cơ sở phân phối nào đó. Và có vẻ như tên Vũ công còn gắp từng viên một bằng các khớp đốt ngón tay để nạp vào súng nhằm tránh lưu lại dấu vân tay. Một trò cũ rích.
“Tiếp tục đi”, Rhyme bảo Sachs.
“Đầu đạn súng ngắn.”
Cooper xem xét đến những đầu đạn này. Ba viên đầu bẹt. Và một viên còn giữ được hình dạng khá nguyên vẹn. Hai viên kia còn dính nguyên vết máu của Brit Hale đã bị đốt nóng thành màu đen sì.
“Quét đầu đạn tìm dấu vân tay”, Rhyme ra lệnh.
“Tôi làm rồi”, cô nói, giọng nhát gừng.
“Thử bằng tia laser.”
Cooper làm theo.
“Không có gì, Lincoln.” Người kỹ thuật viên quay sang nhìn một mẩu vải cotton đựng trong túi nhựa. Anh hỏi, “Cái gì đấy?”
Sachs trả lời, “À, tôi tìm được cả một đầu đạn súng trường của hắn nữa.”
“Sao cơ?”
“Hắn bắn mấy phát vào gã Jodie. Hai viên trong số đó xuyên vào tường và nổ tung. Viên này xuyên vào đất mềm – một luống hoa – và không nổ. Tôi tìm thấy một cái lỗ nhỏ giữa luống hoa phong lữ và…”
“Chờ đã.” Cooper trợn tròn mắt. “Đó là một viên đạn chạm nổ, đúng không?”
Sachs nói, “Đúng, nhưng nó đã không nổ”.
Người kỹ thuật viên khẽ khàng đặt chiếc túi lên bàn và bước lùi lại, không quên kéo Sachs – cô cao hơn anh ta đến cả hai inch – lùi lại với mình.
“Có chuyện gì thế?”
“Đạn chạm nổ thường rất thiếu ổn định. Có thể ngay lúc này những hạt thuốc nổ bên trong đang âm ỉ cháy…Viên đạn có thể phát nổ bất kỳ lúc nào. Chỉ một mảnh đạn văng ra cũng có thể sát thương rất ghê gớm.”
“Anh đã xem qua mảnh vỡ của những đầu đạn khác chưa, Mel?” Rhyme hỏi. “Chúng được cấu tạo như thế nào?”
“Tinh vi lắm, Lincoln ạ”, người kỹ thuật viên bực bội nói, vầng trán hói sớm của anh rịn những giọt mồ hôi bóng loáng.
“Bên trong đổ đầy PETN, cũng là một loại thuốc nổ không khói như trong vỏ đạn. Đây chính là điều khiến viên đạn trở nên không ổn định.”
Sachs hỏi, “Vậy tại sao nó lại không nổ?”.
“Có thể do bề mặt đất mềm đã làm giảm độ va đập. Vả lại đây là đạn do hắn tự làm. Có lẽ việc kiểm soát chất lượng của hắn đối với viên này không được tốt như những viên khác.”
“Hắn tự chế những đầu đạn này sao?”, Rhyme hỏi. “Như thế nào?”
Mắt vẫn dán chặt vào chiếc túi nhựa. người kỹ thuật viên trả lời, “À thì cách thông thường nhất là khoan một lỗ từ đầu đạn xuống gần đến cuối đuôi đạn. Thả vào đó một viên lõi đạn cùng chút thuốc nổ đen hoặc thuốc nổ không khói. Anh chỉ việc cuốn tròn một mảnh plastic mỏng rồi luồn nó vào trong. Rồi phong kín lại – trong trường hợp này hắn dùng chóp đạn bằng gốm. Khi chạm vào mục tiêu, viên lõi đạn sẽ đập vào thuốc nổ. Sự tương tác này sẽ kích nổ lượng PETN kia”.
“Cuộn tròn những mảnh plastic ư?”, Rhyme hỏi. “Kẹp giữa các ngón tay mà nhét vào à?”
“Thường thì thế.”
Rhyme ngẩng lên nhìn Sachs và trong khoảng khắc đó sự rạn nứt giữa hai người dường như biến mất. Họ mỉm cười và đồng thanh thốt lên, “Dấu vân tay!”.
Mel Cooper nói, “Có thể. Nhưng hai người định tìm ra bằng cách nào đây? Trước hết phải tháo rời nó ra đã”.
Sachs nói ngay không một chút do dự, “Nếu vậy chúng ta hãy tháo nó ra đi”.
“Không, không, không, Sachs”, Rhyme xẵng giọng. “Không phải cô. Chúng ta sẽ đợi đội rà phá bom đến.”
“Chúng ta không còn thời gian.”
Cô cúi người xuống cẩm lấy chiếc túi, bắt đầu mở nó ra.
“Sachs, cô đang định cố chứng minh cái chết tiệt gì vậy?”
“Chẳng cố chứng minh cái gì hết”, cô lạnh lùng trả lời. “Tôi đang cố gắng tóm cổ tên giết người thôi.”
Cooper bất lực đứng như trời trồng.
“Có phải cô đang cố cứu Jerry Banks không? Hừm, bây giờ thì điều đó cũng quá muộn rồi. Kệ cậu ta đi. Hãy tiếp tục công việc của cô.”
“Đây là công việc của tôi.”
“Sachs, đó không phải lỗi của cô!”, Rhyme gầm lên. “Quên nó đi. Hãy để người chết được ngủ yên. Tôi nói với cô điều đó không biết bao nhiêu lần rồi.”
Cô bình thản trả lời, “Tôi sẽ phủ áo giáp chống đạn của mình lên trên nó, rồi tiến hành công việc từ phía sau”. Cô cởi bỏ chiếc áo sơ mi màu xanh của mình rồi kéo soạt những sợi đai của chiếc áo chống đạn American Body Armor. Cô dựng chiếc áo chống đạn lên như một cái lều phủ bên chiếc túi plastic đang đựng đầu đạn.
Cooper nói, “Cô có thể ở phía sau chiếc áo giáp nhưng hai tay cô thì không đâu”.
“Đằng nào thì những bộ áo giáp chống bom cũng không có phần bảo vệ tay”, cô nói thẳng toẹt, rồi rút đôi nút bịt tai vẫn dùng khi tập bắn súng từ trong túi áo ra, nhét chúng vào lỗ tai mình. “Anh sẽ phải hét to đấy”, cô nói với Cooper “Tôi phải làm gì bây giờ?”
Không, Sachs, không, Rhyme thầm nghĩ.
“Anh mà không chịu nói cho tôi biết là tôi cứ thế cắt nó ra đấy.” Vừa nói dứt lời cô đã cầm một lưỡi cưa pháp y chuyên dụng lên tay. Lưỡi cưa huơ huơ trên chiếc túi. Cô dừng lại chờ đợi.
Rhyme thở dài, gật đầu với Cooper. “Bảo cô ấy phải làm gì đi.”
Người kỹ thuật viên khó nhọc nuốt khan. “Được rồi. Lấy nó ra khỏi bọc đi. Nhưng thật cẩn thận đấy. Được rồi, đặt nó lên chiếc khăn này. Đừng có mạnh tay. Đó sẽ là điều tồi tệ nhất cô có thể làm.”
Cô lấy chiếc đầu đạn ra khỏi túi, một mẩu kim loại bé xíu đến ngỡ ngàng với một chóp màu trắng nhợt.
“Thấy cái chóp đó không?”, Cooper nói tiếp. “Khi viên đạn phát nổ cái chóp đó sẽ xuyên thủng qua áo giáp chống đạn và ít nhất là một hoặc hai bức tường. Đó là chóp bọc gốm Teflon.”
“Được rồi.” Cô nói và đặt viên đạn nằm xuống, chóp của nó quay vào trong tường.
“Sachs”, Rhyme nhẹ nhàng nói. “Dùng kẹp forceps, đừng dùng ngón tay.”
“Nó mà nổ thì cũng chẳng khác gì nhau đâu, Rhyme. Với lại tôi cần dùng tay để kiểm soát cho chính xác.”
“Làm ơn đi.”
Cô lưỡng lự cầm lấy chiếc kẹp mà Cooper đang chìa ra cho cô. Cô kẹp chặt lấy phần đuôi của đầu đạn.
“Tôi phải làm gì để mở nó ra bây giờ? Cắt à?”
“Cô không được cắt qua lớp chì”, Cooper vội vàng nói. “Nhiệt độ do ma sát gây ra sẽ làm khiến khối thuốc nổ đen bên trong phát hỏa. Trước hết cô phải tách phần chóp gốm rồi kéo phần lõi nhựa bên trong ra.”
Mồ hôi bắt đầu lăn trên mặt cô. “Được rồi. Dùng kìm à?”
Cooper lục lọi trên bàn làm việc rồi lấy ra một cặp kìm mũi kim và bước lại bên cạnh cô. Anh đặt chiếc kìm lên bàn tay phải của cô, rồi bước lùi lại.
“Cô phải cặp mũi kìm lên chóp gốm và xoắn mạnh. Hắn gắn chóp vào đầu đạn bằng keo epoxy. Loại keo này không ăn lắm khi kết hợp với chì, nên có lẽ nó sẽ bong ra. Nhưng đừng bóp chặt quá. Phần chóp đó mà bị vỡ thì chỉ có cách là phải dùng khoan để lấy nó ra. Mà có khi nó còn phát nổ cũng nên.”
“Chặt nhưng không được quá chặt”, cô lầm bầm.
“Hãy nghĩ tới tất cả những chiếc xe mà cô từng sửa, Sachs”, Rhyme nói.
“Gì cơ?”
“Khi cô cố tìm cách tháo những chiếc bugi cũ ra ấy. Đủ mạnh để tháo chúng ra, nhưng không quá mạnh để có thể làm vỡ lớp vỏ gốm.”
Cô lơ đễnh gật đầu và anh cũng không biết liệu cô có nghe thấy những gì anh vừa nói không nữa. Sachs cúi thấp đầu xuống sau chiếc lều được cô dựng lên bằng áo giáp chống đạn.
Rhyme nhìn thấy mắt cô đang nhắm chặt lại.
Ôi, Sachs…
Anh không nhìn thấy bất kỳ chuyển động nào. Anh chỉ nghe thấy một tiếng tách rất khẽ. Cô cứng đờ người trong giây lát, rồi hé mắt nhìn qua tấm áo giáp. “Chóp gốm rời ra rồi. Đầu đạn đã mở.”
Cooper nói, “Cô có thấy thuốc nổ bên trong không?”.
Cô hé mắt nhìn vào trong. “Có.”
Anh đưa cho cô một vịt dầu máy nhẹ. “Nhỏ vài giọt dầu này vào trong rồi dốc ngược nó xuống. Phần lõi nhựa sẽ tự rơi ra ngoài. Chúng ta không thể kéo nó ra vì như thế sẽ làm hỏng mất dấu vân tay.”
Cô tra dầu vào trong, rồi nghiêng đầu đạn đi, đầu mở chúc xuống dưới, về phía chiếc khăn bông.
Không có gì xảy ra.
“Mẹ kiếp”, cô lầm bầm.
“Đừng…”
Cô lắc đầu đạn. Lắc mạnh.
“… có lắc!” Cooper hét lên.
“Sachs!” Rhyme há hốc miệng.
Cô càng lắc mạnh hơn. “Khốn khiếp thật!”
“Không!”
Một cuộn màu trắng bé xíu rơi ra, sau đó là vài hạt thuốc nổ màu đen.
“Được rồi”, Cooper thốt lên, thở phào nhẹ nhõm. “An toàn rồi."
Anh bước lại gần và dùng một que thăm là mũi kim dài lật đẩy cuộn plastic lên một tấm kính mỏng. Xong xuôi anh bắt đầu bước với dáng đi khẽ khàng đặc trưng của các nhà hình sự học ở khắp nơi trên thế giới – lưng thẳng đứng, tay thả lỏng nhưng giữ cho mẫu vật bên trên cố định không một chút suy chuyển – và quay về chỗ đặt kính hiển vi. Anh đặt khối thuốc nổ lên vị trí quan sát.
“Dùng Magna- Brush nhé?”. Cooper hỏi, muốn nói đến một loại bột phát hiện dấu vân tay màu xám cực mịn.
“Không”, Rhyme trả lời. “Dùng thuốc nhuộm màu tím đi. Đây là dấu vân tay in trên nhựa plastic. Chúng ta cần làm thế nào để tăng thêm độ tương phản một chút.”
Cooper xịt dung dịch thuốc, rồi đặt tấm kính dưới ống kính quan sát của kính hiển vi.
Hình ảnh đồng thời vụt hiện lên trên màn hình máy tính của Rhyme.
“Có thế chứ!” Anh thốt lên. “Nó kia kìa!”
Những đường xoắn và rẽ nhánh hiện lên rõ mồn một.
“Cô túm đúng tổ chuồn chuồn rồi, Sachs. Làm tốt lắm.”
Trong khi Cooper chậm rãi xoay đầu cuộn thuốc nổ, Rhyme thực hiện việc chụp ảnh liên tiếp hình ảnh trên màn hình – định dạng ảnh kiểu bitmap – rồi lưu chúng lại trên ổ cứng máy tính. Sau đó anh lắp ghép chúng lại và in ra thành một bản phim bạc hai chiều duy nhất.
Nhưng người kỹ thuật viên thở dài khi anh kiểm tra bức ảnh.
“Sao thế?” Rhyme hỏi.
“Vẫn chưa đủ để đối chiếu. Một chiều là 1/4 inch, chiều kia là 5/8 inch. Không AFIS nào trên thế giới có thể đưa ra được kết quả từ mẫu vân tay này.”
“Lạy Chúa”, Rhyme gầm lên. “Tất cả những cố gắng… và nguy hiểm… thành công cốc.”
Một tràng cười vang bỗng vang lên.
Từ Amelia Sachs. Cô đang đăm đăm nhìn lên tường, lên những bảng sơ đồ bằng chứng. HT- Một, HT-Hai…
“Ghép chúng lại với nhau”, cô thốt lên.
“Sao cơ?”
“Chúng ta đã có ba dấu vân tay không hoàn chỉnh”, cô giải thích. “Có lẽ tất cả đều là dấu vân tay trên ngón trỏ của hắn. Các anh không thể ghép chúng lại với nhau được à?”
Cooper băn khoăn nhìn Rhyme. “Tôi chưa bao giờ nghe nói đến cách làm này.”
Cả Rhyme cũng chưa. Nhiệm vụ cốt yếu của ngành khoa học hình sự là phân tích bằng chứng để đưa ra trước tòa – bản thân từ “pháp y” cũng đã có hàm nghĩa là “liên quan đến tòa án, thủ tục tố tụng” – và một tay luật sư biện hộ sừng sỏ sẽ không đời nào chịu để yên chuyện nếu biết cảnh sát dùng trò lắp ghép các dấu vân tay rời rạc của hung thủ lại với nhau.
Nhưng ưu tiên của họ là tìm ra tên Vũ công, chứ có phải tìm bằng chứng để kiện hắn ra tòa đâu cơ chứ.
“Nhất định là được”, Rhyme nói. “Hãy làm đi.”
Cooper với lấy những tấm ảnh chụp dấu vân tay khác của tên Vũ công đang đính trên tường và đặt chúng lên bàn làm việc trước mặt mình.
Họ bắt tay vào làm việc, Sachs và người kỹ thuật viên. Cooper chụp lại những tấm ảnh, giảm bớt kích cỡ của chúng xuống cho thống nhất với nhau. Sau đó anh và Sachs bắt đầu ghép chúng lại như người đang chơi trò ghép hình. Họ chẳng khác gì những đứa trẻ đang phấn khích thử nghiệm các phương án khác nhau, sắp xếp, thử đi thử lại và say sưa cãi vã. Sachs còn hăng hái đến nỗi lấy ra một cây bút và vẽ thêm vài đường nối liền khoảng trống trên tấm ảnh.
“Ăn gian nhé”, Cooper đùa.
“Nhưng cứ khớp là được còn gì”, cô thốt lên với vẻ đắc thắng.
Cuối cùng họ cũng cắt và dán xong một bức ảnh trọn vẹn. Thực ra nó cũng chỉ bằng 3/4 kích thước của một dấu vân tay bình thường, có lẽ là ngón trỏ bên tay phải.
Cooper giơ tấm ảnh lên. “Tôi không dám tin vào vụ này cho lắm, Lincoln ạ.”
Nhưng Rhyme nói, “Đó là nghệ thuật mà, Mel. Đẹp thật đấy!”.
“Cho kiểm tra qua AFIS đi. Đặt lệnh kiểm tra với mức ưu tiên cao nhất. Tất cả các bang,”
“Ôi trời”, Cooper thốt lên. “Thế thì coi như đi tong khoản lương cả năm của tôi rồi.”
Anh quét tấm ảnh vào máy tính.
“Có lẽ sẽ phải mất đến nửa tiếng đồng hồ”, Cooper nói, hoàn toàn thực tế chứ không phải bi quan.
Nhưng hóa ra cũng không lâu đến mức đó. Đúng năm phút sau – chỉ vừa đủ thời gian để Rhyme bắt đầu tự hỏi ai sẽ là người có thiện chí rót cho anh chút rượu, Sachs hay Cooper – màn hình máy tính đã nhấp nháy và một hình ảnh mới vụt hiện lên.
Yêu cầu của bạn đã nhận được… một kết quả khớp. Tỷ lệ đối chiếu là 14%. Xác suất nhận diện thống kê: 97%.
“Ôi lạy Chúa”, Sachs thốt lên. “Chúng ta tóm được hắn rồi.”
“Hắn là ai, Mel?” Rhyme khẽ khàng hỏi, như thể anh sợ là nếu nói to những từ đó có thể thổi bay các electron mong manh trên màn hình máy tính.
“Hắn không còn là tên Vũ công nữa”, Cooper nói. “Hắn là Stephen Robert Kall. Ba mươi sáu tuổi. Chỗ ở hiện tại: Không xác định. Lần cuối cùng được trông thấy, cách đây đã mười lăm năm, một số hiệu trong giấy gọi nhập ngũ tại Cumberland, West Virginia.”
Một cái tên quá phổ biến. Rhyme chợt nhận ra một cảm giác thất vọng rất vô lý đang len lỏi trong lòng mình. Kall.
“Tại sao hắn lại có trong hồ sơ?”
Cooper đọc to. “Câu chuyện mà hắn đã kể cho gã Jodie… Hắn phải vào trại cải tạo hai mươi tháng vì tội ngộ sát khi mới mười lăm tuổi.” Một tiếng cười khẩy. “Hình như tên Vũ công không phí công kể cho gã kia rằng nạn nhân trong câu chuyện chính là người bố dượng của hắn.”
“Bố dượng à, hừm.”
“Chỗ này khó đọc quá”, Cooper phàn nàn, mắt gí sát vào màn hình. “Trời ơi.”
“Sao vậy?”, Sachs sốt ruột hỏi.
“Những dòng ghi chú trong báo cáo của cảnh sát. Chuyện xảy ra như thế này. Có vẻ như đã từng có tiền sử xung đột gia đình. Mẹ của hắn đang chết dần vì bệnh ung thư và chồng bà ta – tức là bố dượng của Kall – đã đánh bà ta vì lỗi vớ vẩn nào đó. Bà ta ngã và bị gãy một cánh tay. Vài tháng sau bà ta qua đời và Kall nung nấu trong đầu cái suy nghĩ rằng cái chết của mẹ hắn là lỗi của Lou.”
Cooper tiếp tục đọc và người anh thực sự bắt đầu run bắn lên. “Có muốn nghe chuyện gì đã xảy ra không?”
“Cứ đọc đi.”
“Một vài tháng sau khi bà mẹ qua đời Stephen và bố dượng hắn cùng vào rừng đi săn. Thằng nhóc đã bất ngờ đánh ngất ông bố dượng, lột trần truồng ông ta ra, rồi trói vào một gốc cây trong rừng. Hắn đã để mặc ông ta như vậy nhiều ngày liền. Theo lời luật sư bào chữa thì hắn làm vậy chỉ để dọa ông bố dượng. Nhưng lúc cảnh sát đến nơi, hừm, các vị cứ hình dung là vết thương đã bị nhiễm trùng khủng khiếp. Giòi, chủ yếu là giòi. Nạn nhân chết sau đó hai ngày. Thật dã man.”
“Chúa ơi”, Sachs thì thầm.
“Khi họ tìm thấy ông ta, thằng bé cũng ở đó, hắn ngồi ngay cạnh bố dượng mình, trơ mắt nhìn.” Cooper đọc tiếp, “Kẻ tình nghi đầu hàng ngay lập tức không hề chống cự. Dường như hắn đang ở trong trạng thái hoàn toàn không bình thường. Cứ lải nhải lặp đi lặp lại, “Cái gì cũng có thể giết, cái gì cũng có thể giết”… Hắn được đưa tới Trung tâm Sức khỏe Tâm thần khu vực Cumberland để đánh giá tình trạng bệnh lý.”
Các yếu tố thuộc về tiểu sử tâm lý không khiến Rhyme thấy mặn mà cho lắm. Anh tin tưởng vào những kỹ thuật xây dựng chân dung tội phạm dựa trên bằng chứng khoa học hình sự nhiều hơn vào những chuyên gia nghiên cứu hành vi. Anh biết tên Vũ công là một kẻ biến thái – tất cả những tên giết người chuyên nghiệp đều như thế – nhưng ngay lúc này những mất mát cũng như tổn thương đã biến hắn thành con người như hiện nay cũng không giúp được gì nhiều. Anh hỏi, “Có ảnh không?”
“Không bức ảnh nào trong thời gian ở trại cải tạo vị thành niên.”
“Đúng rồi. Chó chết thật. Thế còn hồi nhập ngũ?”
“Không. Nhưng ở đây còn một tiền sự nữa.”, Cooper nói. “Hắn cố tìm cách đăng ký gia nhập lính thủy đánh bộ nhưng hồ sơ tâm lý không ổn định đã khiến hắn bị từ chối. Hắn đã săn lùng những sĩ quan tuyển quân khu vực Washington D.C. suốt mấy tháng liền và cuối cùng hắn hành hung một trung sĩ. Nhưng được hưởng án treo.”
Sellitto nói, “Chúng ta sẽ cho kiểm tra cái tên này qua chương trình FINEST, danh sách tên lỏng, và của NCIC”.
“Bảo Dellray cử ngay vài người tới Cumberland và bắt đầu theo dấu hắn”, Rhyme ra lệnh.
“Sẽ làm ngay đây.”
Stephen Kall…
Sau suốt ngần ấy năm. Cảm giác thật giống như cuối cùng cũng được tới thăm một ngôi đền linh thiêng ta đã đọc đến suốt đời nhưng chưa bao giờ có dịp tận mắt nhìn thấy.
Có tiếng gõ cửa dồn dập trên cửa làm mọi người giật mình. Theo bản năng cả Sachs và Sellitto đều vụt đưa tay xuống nắm lấy báng súng của mình.
Nhưng vị khách hóa ra chỉ là một trong những cảnh sát bảo vệ dưới nhà. Anh ta xách theo một chiếc túi to bự. “Tôi chuyển đồ lên."
“Cái gì đấy?” Rhyme hỏi.
“Một viên cảnh sát từ Illinois đến. Anh ta nói chiếc túi này được gửi đến từ Phòng Cứu hỏa và Cứu hộ hạt Du Page.”
“Là cái gì?”
Viên cảnh sát nhún vai. “Anh ta bảo là những thứ linh tinh từ lốp ô tô gì đấy. Nhưng lấy những cái đó làm gì chứ. Chắc anh ta nói đùa.”
“Không”, Rhyme nói, “đó chính xác là sự thật 100% đấy.” Anh liếc nhìn Cooper. “Những thứ được cạo ra từ lốp xe có mặt tại hiện trường vụ nổ.”
Viên cảnh sát trợn tròn mắt. “Các ông muốn cái này thật sao? Được mang tận từ Chicago đến?”
“Chúng tôi đã nín thở chờ nó lâu lắm rồi đấy.”
“Hừm. Đời nhiều lúc cũng buồn cười thật, tôi nói vậy có đúng không?”
Và tất nhiên là Lincoln Rhyme chỉ có thể gật đầu đồng ý.
Bay cũng chỉ là một phần của nghề bay chuyên nghiệp.
Nghề bay chuyên nghiệp cũng còn là công việc giấy tờ.
Nằm lăn lóc ở phía sau chiếc xe thùng đang đưa Percey Clay tới sân bay Mamarastoryck là một chồng to đùng những cuốn sách cùng với biểu đồ và tài liệu:Danh bạ cơ sở/ Sân bay, Cẩm nang Thông tin Phi công, những “Thông báo gửi phi công” do FAA phát hành – cùng những thông tư hướng dẫn, vàDanh bạ Thông tin Sân bay Jeppesen. Tất cả phải đến hàng nghìn trang. Hàng núi thông tin. Như hầu hết các phi công khác, Percey thuộc lòng tất cả những thông tin đó. Và cô không bao giờ nghĩ đến việc lái một chiếc máy bay mà không quay lại với những tài liệu gốc để nghiên cứu chúng từ đầu đến cuối, đúng theo nghĩa đen.
Với những thông tin này và chiếc máy tính của mình, cô đang bận bịu điền vào hai tài liệu cơ bản trước khi cất cánh: nhật ký bay và lịch trình bay không lưu. Trong nhật ký bay cô sẽ phải đánh dấu độ cao của họ, tính toán độ sai lệch đường bay do gió cản và biên độ dao động giữa đường bay chuẩn và đường bay từ trường, xác định ETE – tức là tổng thời gian bay dự tính trên không – để từ đó tính toán thông số thần thánh: lượng nhiên liệu họ sẽ cần cho chuyến bay. Sáu thành phố, sáu nhật ký bay khác nhau, hàng chục điểm kiểm tra giữa các chặng bay…
Rồi lại còn lịch trình bay không lưu theo quy định của FAA, đặt cạnh nhật ký bay. Một khi họ đã cất cánh, người phi công phụ sẽ kích hoạt lịch trình này bằng cách gọi cho Đài Kiểm soát Không lưu ở Mamarastoryck, sau đó đến lượt này gọi tiếp đến Chicago để thông báo về thời điểm dự tính đến nơi của chiếc Foxtrot Bravo. Nếu chiếc máy bay không đến nơi trong vòng nửa tiếng sau thời điểm dự kiến, nó sẽ được thông báo là đến chậm và các thủ tục tìm kiếm-cứu hộ sẽ bắt đầu được triển khai.
Đây là những tài liệu rất phức tạp và buộc phải được tính toán một cách hoàn hảo. Nếu như máy có nguồn cung cấp nhiên liệu không hạn chế họ hoàn toàn có thể trông cậy vào việc định hướng bay qua radio và có thể dành bao nhiêu thời gian tùy thích cho việc lượn lờ bay từ điểm này tới điểm khác ở bất kỳ độ cao nào họ muốn. Nhưng thực tế thì không chỉ nhiên liệu đã cực đắt tiền (mà tệ nhất là hai động cơ tua bin phản lực Garrett tiêu tốn lượng nhiên liệu thật kinh hoàng); mà nó còn rất nặng và riêng chi phí cho việc mang theo chúng – trong những bình nhiên liệu phụ - cũng đã ngốn mất rất nhiều tiền. Trong những chuyến bay dài, nhất là với việc nhiều lần phải cất cánh tiêu tốn nhiên liệu, việc chở theo quá nhiều xăng có thể làm giảm đáng kể khoản lợi nhuận mà Công ty đang kiếm được từ chuyến bay. Theo quy điịnh của FAA mỗi chuyến bay phải có đủ nhiên liệu để đưa máy bay đến được đích, cộng với một lượng dự trữ, trong trường hợp phải bay đêm, tương đương với bốn mươi lăm phút bay.
Vừa lướt ngón tay nhoay nhoáy trên bàn phím máy tính, Percey Clay vừa cẩn thận điền hết các mục trong hai mẫu tài liệu bằng kiểu chữ viết tay rất rõ ràng của mình. Cẩu thả trong tất cả những thứ khác trong đời mình, nhưng riêng với việc bay thì cô lại cực kỳ tỉ mỉ. Chỉ riêng việc điền thông tin về các tần số của ATIS[98] và biên độ dao động do từ trường cũng làm cô thích thú. Cô không bao giờ quá bủn xỉn, cũng không bao giờ quá phóng tay nếu như công việc yêu cầu sự tính toán chính xác. Tối hôm nay, cô lại càng đắm chìm trong công việc.
Roland Bell ngồi bên cạnh cô. Trông anh thật phờ phạc và ủ rũ. Không còn thấy bóng dáng của người đàn ông vui tính và dí dỏm lúc đầu. Cô thấy buồn cho anh, cũng giống như cô thấy buồn cho bản thân mình; có vẻ như Brit Hale là nhân chứng đầu tiên anh không bảo vệ được. Cô cảm thấy một sự thôi thúc thật khó hiểu muốn được chạm vào cánh tay anh, được an ủi anh, giống như anh đã làm với cô. Nhưng dường như anh thuộc mẫu người muốn thích khép mình lại mỗi khi gặp mất mát; bất kỳ sự cảm thông nào cũng chỉ khiến mọi việc thêm tồi tệ. Anh cũng giống hệt cô, Percey tự nhủ. Bell chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ của chiếc xe thùng, bàn tay chốc chốc lại nắm lấy phần báng nhựa màu đen kẻ chéo của khẩu súng đeo trong bao dưới nách.
Đúng lúc cô vừa điền xong tờ khai lịch trình bay không lưu cuối cùng, chiếc xe thùng rẽ vào góc đường dẫn vào sân bay, dừng lại theo hiệu lệnh của những người bảo vệ có vũ trang, những người này kiểm tra giấy tờ của mọi người trong xe rồi vẫy tay cho họ vào.
Percey chỉ cho xe chạy tới chiếc hangar nhưng cô để ý thấy là đèn trong khu văn phòng vẫn sáng. Cô yêu cầu những chiếc xe dừng lại và cô trèo ra ngoài, trong khi Bell và những cảnh sát bảo vệ khác bước hai bên cô, cảnh giác và căng thẳng, cùng đi vào trong khu chính của văn phòng.
Chú thích
[98]ATIS (viết tắt của Automatic Terminal Information Service): Dịch vụ Thông tin Tự động khu vực sân bay.
Ron Talbot với bộ dạng thật nhàu nhĩ và kiệt sức, đang ngồi trong văn phòng, tay không ngừng lau vầng trán hói đẫm mồ hôi. Mặt ông ta đỏ bầm trông thật đáng ngại.
“Ron...” Cô hớt hải bước lên phía trước. “Anh không sao đấy chứ?”
Họ ôm chầm lấy nhau
“Brit”, ông ta thốt lên, lắc đầu bàng hoàng, hổn hển. “Hắn đã hại cả Brit nữa. Percey lẽ ra cô không nên tới đây. Hãy tới chỗ nào đó an toàn. Quên chuyện chuyến bay đi. Không đáng để mạo hiểm vậy đâu.”
Cô bước lùi lại. “Có chuyện gì thế? Anh ốm à?”
“Chỉ là mệt mỏi thôi.”
Cô giật điếc thuốc lá ra khỏi tay ông ta và dụi tắt nó đi. “Anh tự mình thực hiện những công việc đó à? Trên chiếc Foxtrot Bravo ấy?”
“Tôi…”
“Ron?”
“Cũng chỉ là hầu hết thôi. Nó gần xong xuôi rồi. Thằng cha ở Northeast đã mang đến đây bình cứu hoả thay thế và động cơ vòng xuyến annular cách đây khoảng một giờ. Tôi đã bắt đầu lắp chúng rồi đấy chứ. Chỉ là hơi mệt một chút thôi.”
“Lại những cơn đau ngực à?”
“Không, cũng không hẳn thế.”
“Ron, anh về nhà đi.”
“Tôi có thể…”
“Ron”, cô xẵng giọng. “Tôi vừa mất hai người thân yêu trong vòng có hai ngày qua. Tôi sẽ không chịu mất thêm người thứ ba đâu… Tôi có thể lắp động cơ annular mà. Dễ như ăn bánh thôi, có gì đâu.”
Trông Talbot như thể ông ta thậm chí còn không đủ sức cầm một chiếc cờ lê, chứ đừng nói đến chuyện khiêng một buồng đốt động cơ nặng trịch.
Percey hỏi, “Brad đâu rồi?”. Người phi công phụ cho chuyến bay.
“Đang trên đường tới. Sẽ có mặt ở đây trong vòng một giờ nữa.”
Cô hôn lên vầng trán bết mồ hôi của ông ta. “Anh về nhà đi. Và đừng có đốt thuốc nữa, vì Chúa. Anh có bị điên không?”
Ông ta ôm lấy cô. “Percey, về chuyện của Brit…”
Cô giơ một ngón tay lên môi và suỵt khẽ để ngăn ông ta lại. “Về nhà ngay. Cố chợp mắt lấy một chút. Khi anh tỉnh giấc thì tôi đã ở Erie rồi và chúng ta sẽ giành lại được bản hợp đồng đó. Đã ký, đóng dấu và trao tận tay.”
Ông ta loạng choạng gượng dậy, đứng sững một chút chăm chú nhìn chiếc Foxtrot Bravo bên ngoài cửa sổ. Khuôn mặt lộ rõ một vẻ cay đắng và chua chát. Cô còn nhớ cũng chính là vẻ mặt đó khi ông ta cho cô biết việc ông ta không qua được bài kiểm tra thể lực và không bao giờ còn có thể kiếm sống bằng nghề bay được nữa. Talbot đi thẳng ra cửa.
Đã đến lúc bắt tay vào công việc. Cô xắn hai ống tay áo lên, ra hiệu cho Bell bước lại gần mình. Anh cúi thấp đầu xuống phía cô theo cách mà cô thấy thật quyến rũ làm sao. Giống hệt như tư thế của Ed mỗi lần anh cúi xuống nghe cô thì thầm gì đó. Cô nói, “Tôi sẽ cần khoảng vài giờ trong hangar. Anh có thể giữ tên chó đẻ đó tránh xa tôi cho đến lúc đó không?”.
Không còn những câu văn hoa trịnh trọng, không còn kiểu thoả thuận chắc nịch ban đầu. Roland Bell, người đàn ông với hai khẩu súng, gật đầu với vẻ nghiêm túc, ánh mắt tinh nhanh như điện xẹt đảo hết chỗ này sang chỗ khác.
Trong tay họ lúc này là một điều bí hiểm.
Cooper và Sachs đã kiểm tra tất cả những dấu vết tìm được trong lốp của những chiếc xe cứu hoả ở Chicago cùng xe cảnh sát có mặt tại hiện trường vụ nổ đã giết chết Ed Carney. Đó là một mớ hỗn độn toàn đất bẩn vô tích sự, phân chó, cỏ, dầu và rác rưởi linh tinh mà Rhyme biết chắc là kiểu gì cũng có. Nhưng họ đã có một phát hiện mà anh linh cảm thấy là rất quan trọng.
Chỉ có điều anh hoàn toàn không biết ý nghĩa của nó là gì.
Chút bằng chứng duy nhất cho thấy dấu hiệu của dư chất thuốc nổ từ quả bom là những mẩu vụn ti li của một chất rất dẻo màu be. Mấy phân tích vật chất bằng sắc ký khí/phổ kế khối lượng cho thấy đó là chất C5H8.
“Isoprene”, Cooper thông báo.
“Là chất gì vậy?”, Sachs đã hỏi ngay.
“Cao su”, Rhyme trả lời.
Cooper nói tiếp. “Tôi cũng nhận thấy có một số acid béo. Thuốc nhuộm, bột tan.”
“Có chất làm cứng nào không?”, Rhyme hỏi. “Đất sét? Magnesium carbonate? Oxide kẽm?”
“Chẳng có gì.”
“Có nghĩa đây là cao su mềm. Như latex.”
“Và cả những mẩu vụn nhỏ của keo gắn cao su nữa”, Cooper bổ sung; căng mắt quan sát một mẫu hợp chất qua ống kính hiển vi điện tử. “Bingo[99]!” Anh thốt lên.
“Đừng có đùa bỡn nữa, Mel”, Rhyme làu bàu.
“Có mấy mẩu chất hàn và những vụn li ti bằng nhựa nằm lẫn trong cao su. Bảng mạch điện.”
“Nằm trong thiết bị hẹn giờ chăng?”, Sachs nói ra mối băn khoăn của mình.
“Không, thiết bị hẹn giờ còn nguyên vẹn kia mà”, Rhyme nhắc cô.
Anh có cảm giác họ đang chuẩn bị phát hiện được điều gì đó rất quan trọng. Nếu như đây là một phần của quả bom, rất có thể nó sẽ cho họ biết thêm một đầu mối về nguồn gốc của loại thuốc nổ được sử dụng hoặc một thành phần nào đó.
“Chúng ta phải xác định chắc chắn liệu những cái này là từ quả bom hay từ chính chiếc máy bay. Sachs, tôi muốn cô chịu khó tới sân bay một chuyến.”
“Sân bay…”
“Mararastoryck. Hãy tìm Percey và yêu cầu cô ấy cung cấp cho cô mẫu của tất cả những thứ có thành phần chứa latex, cao su, hoặc những mạch điện được gắn ở bụng của chiếc máy bay giống như chiếc mà Carney đã lái ấy. Gần vị trí quả bom phát nổ. Còn anh, Mel, hãy gửi những thông tin này tới ERC, rồi kiểm tra luôn cả ở Cục Điều tra Hình sự Quân đội – biết đâu bên quân đội lại sử dụng thiết bị nổ nào đó có bọc lớp vỏ latex chống thấm nước thì sao. Có thể từ đó chúng ta sẽ lần ra nguồn gốc của quả bom.”
Cooper bắt đầu gõ lệnh kiểm tra trên máy tính, nhưng Rhyme để ý thấy Sachs có vẻ không được hài lòng cho lắm với nhiệm vụ của mình.
“Anh muốn tôi đến gặp và nói chuyện với chị ta sao?”, cô hỏi. “Với Percey ấy?”
“Đúng. Đó chính là những gì tôi đang nói đấy thôi.”
“Được rồi.” Cô thở dài. “Chẳng sao cả.”
“Và đừng có gây khó dễ gì cho cô ấy như cô vẫn làm từ đầu đến giờ. Chúng ta cần sự hợp tác của cô ấy.”
Rhyme hoàn toàn không hiểu tại sao cô lại giật lấy chiếc áo giáp chống đạn của mình một cách cực kỳ giận dữ và hầm hầm bước thẳng ra khỏi phòng mà không thèm nói cả lời tạm biệt.
Chú thích
[99]Bingo: Một trò xổ số rất phổ biến ở Mỹ, được chơi với những tấm các có đánh số. Người chơi thường hô “Bingo” để báo mình là người trúng giải.
Mục tiêu mà nhà hình sự học của chúng ta hướng đến lúc này là sự đặc tính hóa.
Tức là quá trình truy nguyên ra nguồn gốc duy nhất của một bằng chứng cụ thể, loại bỏ hoàn toàn tất cả những nguồn gốc phái sinh khác.
Lúc này đây Lincoln Rhyme đang chăm chú theo dõi bằng chứng cá biệt nhất mà anh có: vết máu từ cơ thể của tên Vũ công. Một xét nghiệm ADN đối với tế bào bạch cầu đa hình thể có thể giúp anh hầu như loại bỏ hoàn toàn khả năng vết máu này là của bất kỳ ai khác.
Mặc dù vậy bằng chứng này cũng không giúp anh biết thêm được gì nhiều. CODIS – Hệ thống thông tin ADN lưu giữ trên máy tính – có chứa thông tin về mẫu máu của những đối tượng từng có tiền án, tiền sự, nhưng dù sao nó cũng chỉ là một cơ sở dữ liệu còn rất hạn chế, chủ yếu lưu giữ mẫu máu của những tên tội phạm tình dục và một số ít những tội phạm hình sự nghiêm trọng. Rhyme không hề ngạc nhiên khi việc đối chiếu mẫu máu của tên Vũ công với cơ sở dữ liệu này không mang lại kết quả gì.
Tuy nhiên Rhyme vẫn ít nhiều hài lòng vì giờ đây họ đã có một phần nhỏ của cơ thể tên giết người, bị thấm vào gạc và nhét vào trong ống nghiệm. Đối với hầu hết các chuyên gia hình sự học, thường thì lúc nào hung thủ cũng đang “ở ngoài kia”; anh hiếm khi nhìn thấy chúng bằng xương bằng thịt, thậm chí có khi còn không bao giờ gặp chúng trừ khi là phải ra tòa làm chứng. Đó là lý do tại sao lúc này đây Rhyme đang cảm thấy nỗi phấn khích thầm kín trước sự hiện diện của kẻ đã gây ra cho rất nhiều người, trong đó có cả anh, biết bao nhiêu là khó khăn, đau khổ.
“Cô còn tìm thấy những gì nữa?”, anh hỏi Sachs.
Cô đã dùng máy hút bụi trong phòng của Brit Hale để tìm kiếm bằng chứng, nhưng đến lúc này cả cô và Cooper đều đã dùng kính lúp và kính hiển vi kiểm tra qua tất cả nhưng không tìm thấy gì ngoài dư chất thuốc súng cùng những mảnh vỡ li ti của đầu đạn cùng những mẩu gạch và sơn tường rơi ra do bị đạn bắn trúng.
Cô cũng tìm thấy vỏ đạn của khẩu súng ngắn bán tự động mà hắn đã sử dụng. Vũ khí của hắn là một khẩu Beretta 7,62 milimét. Có lẽ đó là một khẩu súng đã cũ; vỏ đạn có những vết xước đặc trưng. Những vỏ đạn này, được Sachs thu thập không thiếu cái nào, đều đã bị nhúng vào dung dịch tẩy rửa cực mạnh để loại bỏ ngay cả dấu vân tay của công nhân nhà máy sản xuất đạn – hắn làm vậy để không ai có thể lần ra số đạn này được sản xuất trong một ca làm việc cụ thể tại một trong những nhà máy của hãng Remington trước khi được vận chuyển tới một cơ sở phân phối nào đó. Và có vẻ như tên Vũ công còn gắp từng viên một bằng các khớp đốt ngón tay để nạp vào súng nhằm tránh lưu lại dấu vân tay. Một trò cũ rích.
“Tiếp tục đi”, Rhyme bảo Sachs.
“Đầu đạn súng ngắn.”
Cooper xem xét đến những đầu đạn này. Ba viên đầu bẹt. Và một viên còn giữ được hình dạng khá nguyên vẹn. Hai viên kia còn dính nguyên vết máu của Brit Hale đã bị đốt nóng thành màu đen sì.
“Quét đầu đạn tìm dấu vân tay”, Rhyme ra lệnh.
“Tôi làm rồi”, cô nói, giọng nhát gừng.
“Thử bằng tia laser.”
Cooper làm theo.
“Không có gì, Lincoln.” Người kỹ thuật viên quay sang nhìn một mẩu vải cotton đựng trong túi nhựa. Anh hỏi, “Cái gì đấy?”
Sachs trả lời, “À, tôi tìm được cả một đầu đạn súng trường của hắn nữa.”
“Sao cơ?”
“Hắn bắn mấy phát vào gã Jodie. Hai viên trong số đó xuyên vào tường và nổ tung. Viên này xuyên vào đất mềm – một luống hoa – và không nổ. Tôi tìm thấy một cái lỗ nhỏ giữa luống hoa phong lữ và…”
“Chờ đã.” Cooper trợn tròn mắt. “Đó là một viên đạn chạm nổ, đúng không?”
Sachs nói, “Đúng, nhưng nó đã không nổ”.
Người kỹ thuật viên khẽ khàng đặt chiếc túi lên bàn và bước lùi lại, không quên kéo Sachs – cô cao hơn anh ta đến cả hai inch – lùi lại với mình.
“Có chuyện gì thế?”
“Đạn chạm nổ thường rất thiếu ổn định. Có thể ngay lúc này những hạt thuốc nổ bên trong đang âm ỉ cháy…Viên đạn có thể phát nổ bất kỳ lúc nào. Chỉ một mảnh đạn văng ra cũng có thể sát thương rất ghê gớm.”
“Anh đã xem qua mảnh vỡ của những đầu đạn khác chưa, Mel?” Rhyme hỏi. “Chúng được cấu tạo như thế nào?”
“Tinh vi lắm, Lincoln ạ”, người kỹ thuật viên bực bội nói, vầng trán hói sớm của anh rịn những giọt mồ hôi bóng loáng.
“Bên trong đổ đầy PETN, cũng là một loại thuốc nổ không khói như trong vỏ đạn. Đây chính là điều khiến viên đạn trở nên không ổn định.”
Sachs hỏi, “Vậy tại sao nó lại không nổ?”.
“Có thể do bề mặt đất mềm đã làm giảm độ va đập. Vả lại đây là đạn do hắn tự làm. Có lẽ việc kiểm soát chất lượng của hắn đối với viên này không được tốt như những viên khác.”
“Hắn tự chế những đầu đạn này sao?”, Rhyme hỏi. “Như thế nào?”
Mắt vẫn dán chặt vào chiếc túi nhựa. người kỹ thuật viên trả lời, “À thì cách thông thường nhất là khoan một lỗ từ đầu đạn xuống gần đến cuối đuôi đạn. Thả vào đó một viên lõi đạn cùng chút thuốc nổ đen hoặc thuốc nổ không khói. Anh chỉ việc cuốn tròn một mảnh plastic mỏng rồi luồn nó vào trong. Rồi phong kín lại – trong trường hợp này hắn dùng chóp đạn bằng gốm. Khi chạm vào mục tiêu, viên lõi đạn sẽ đập vào thuốc nổ. Sự tương tác này sẽ kích nổ lượng PETN kia”.
“Cuộn tròn những mảnh plastic ư?”, Rhyme hỏi. “Kẹp giữa các ngón tay mà nhét vào à?”
“Thường thì thế.”
Rhyme ngẩng lên nhìn Sachs và trong khoảng khắc đó sự rạn nứt giữa hai người dường như biến mất. Họ mỉm cười và đồng thanh thốt lên, “Dấu vân tay!”.
Mel Cooper nói, “Có thể. Nhưng hai người định tìm ra bằng cách nào đây? Trước hết phải tháo rời nó ra đã”.
Sachs nói ngay không một chút do dự, “Nếu vậy chúng ta hãy tháo nó ra đi”.
“Không, không, không, Sachs”, Rhyme xẵng giọng. “Không phải cô. Chúng ta sẽ đợi đội rà phá bom đến.”
“Chúng ta không còn thời gian.”
Cô cúi người xuống cẩm lấy chiếc túi, bắt đầu mở nó ra.
“Sachs, cô đang định cố chứng minh cái chết tiệt gì vậy?”
“Chẳng cố chứng minh cái gì hết”, cô lạnh lùng trả lời. “Tôi đang cố gắng tóm cổ tên giết người thôi.”
Cooper bất lực đứng như trời trồng.
“Có phải cô đang cố cứu Jerry Banks không? Hừm, bây giờ thì điều đó cũng quá muộn rồi. Kệ cậu ta đi. Hãy tiếp tục công việc của cô.”
“Đây là công việc của tôi.”
“Sachs, đó không phải lỗi của cô!”, Rhyme gầm lên. “Quên nó đi. Hãy để người chết được ngủ yên. Tôi nói với cô điều đó không biết bao nhiêu lần rồi.”
Cô bình thản trả lời, “Tôi sẽ phủ áo giáp chống đạn của mình lên trên nó, rồi tiến hành công việc từ phía sau”. Cô cởi bỏ chiếc áo sơ mi màu xanh của mình rồi kéo soạt những sợi đai của chiếc áo chống đạn American Body Armor. Cô dựng chiếc áo chống đạn lên như một cái lều phủ bên chiếc túi plastic đang đựng đầu đạn.
Cooper nói, “Cô có thể ở phía sau chiếc áo giáp nhưng hai tay cô thì không đâu”.
“Đằng nào thì những bộ áo giáp chống bom cũng không có phần bảo vệ tay”, cô nói thẳng toẹt, rồi rút đôi nút bịt tai vẫn dùng khi tập bắn súng từ trong túi áo ra, nhét chúng vào lỗ tai mình. “Anh sẽ phải hét to đấy”, cô nói với Cooper “Tôi phải làm gì bây giờ?”
Không, Sachs, không, Rhyme thầm nghĩ.
“Anh mà không chịu nói cho tôi biết là tôi cứ thế cắt nó ra đấy.” Vừa nói dứt lời cô đã cầm một lưỡi cưa pháp y chuyên dụng lên tay. Lưỡi cưa huơ huơ trên chiếc túi. Cô dừng lại chờ đợi.
Rhyme thở dài, gật đầu với Cooper. “Bảo cô ấy phải làm gì đi.”
Người kỹ thuật viên khó nhọc nuốt khan. “Được rồi. Lấy nó ra khỏi bọc đi. Nhưng thật cẩn thận đấy. Được rồi, đặt nó lên chiếc khăn này. Đừng có mạnh tay. Đó sẽ là điều tồi tệ nhất cô có thể làm.”
Cô lấy chiếc đầu đạn ra khỏi túi, một mẩu kim loại bé xíu đến ngỡ ngàng với một chóp màu trắng nhợt.
“Thấy cái chóp đó không?”, Cooper nói tiếp. “Khi viên đạn phát nổ cái chóp đó sẽ xuyên thủng qua áo giáp chống đạn và ít nhất là một hoặc hai bức tường. Đó là chóp bọc gốm Teflon.”
“Được rồi.” Cô nói và đặt viên đạn nằm xuống, chóp của nó quay vào trong tường.
“Sachs”, Rhyme nhẹ nhàng nói. “Dùng kẹp forceps, đừng dùng ngón tay.”
“Nó mà nổ thì cũng chẳng khác gì nhau đâu, Rhyme. Với lại tôi cần dùng tay để kiểm soát cho chính xác.”
“Làm ơn đi.”
Cô lưỡng lự cầm lấy chiếc kẹp mà Cooper đang chìa ra cho cô. Cô kẹp chặt lấy phần đuôi của đầu đạn.
“Tôi phải làm gì để mở nó ra bây giờ? Cắt à?”
“Cô không được cắt qua lớp chì”, Cooper vội vàng nói. “Nhiệt độ do ma sát gây ra sẽ làm khiến khối thuốc nổ đen bên trong phát hỏa. Trước hết cô phải tách phần chóp gốm rồi kéo phần lõi nhựa bên trong ra.”
Mồ hôi bắt đầu lăn trên mặt cô. “Được rồi. Dùng kìm à?”
Cooper lục lọi trên bàn làm việc rồi lấy ra một cặp kìm mũi kim và bước lại bên cạnh cô. Anh đặt chiếc kìm lên bàn tay phải của cô, rồi bước lùi lại.
“Cô phải cặp mũi kìm lên chóp gốm và xoắn mạnh. Hắn gắn chóp vào đầu đạn bằng keo epoxy. Loại keo này không ăn lắm khi kết hợp với chì, nên có lẽ nó sẽ bong ra. Nhưng đừng bóp chặt quá. Phần chóp đó mà bị vỡ thì chỉ có cách là phải dùng khoan để lấy nó ra. Mà có khi nó còn phát nổ cũng nên.”
“Chặt nhưng không được quá chặt”, cô lầm bầm.
“Hãy nghĩ tới tất cả những chiếc xe mà cô từng sửa, Sachs”, Rhyme nói.
“Gì cơ?”
“Khi cô cố tìm cách tháo những chiếc bugi cũ ra ấy. Đủ mạnh để tháo chúng ra, nhưng không quá mạnh để có thể làm vỡ lớp vỏ gốm.”
Cô lơ đễnh gật đầu và anh cũng không biết liệu cô có nghe thấy những gì anh vừa nói không nữa. Sachs cúi thấp đầu xuống sau chiếc lều được cô dựng lên bằng áo giáp chống đạn.
Rhyme nhìn thấy mắt cô đang nhắm chặt lại.
Ôi, Sachs…
Anh không nhìn thấy bất kỳ chuyển động nào. Anh chỉ nghe thấy một tiếng tách rất khẽ. Cô cứng đờ người trong giây lát, rồi hé mắt nhìn qua tấm áo giáp. “Chóp gốm rời ra rồi. Đầu đạn đã mở.”
Cooper nói, “Cô có thấy thuốc nổ bên trong không?”.
Cô hé mắt nhìn vào trong. “Có.”
Anh đưa cho cô một vịt dầu máy nhẹ. “Nhỏ vài giọt dầu này vào trong rồi dốc ngược nó xuống. Phần lõi nhựa sẽ tự rơi ra ngoài. Chúng ta không thể kéo nó ra vì như thế sẽ làm hỏng mất dấu vân tay.”
Cô tra dầu vào trong, rồi nghiêng đầu đạn đi, đầu mở chúc xuống dưới, về phía chiếc khăn bông.
Không có gì xảy ra.
“Mẹ kiếp”, cô lầm bầm.
“Đừng…”
Cô lắc đầu đạn. Lắc mạnh.
“… có lắc!” Cooper hét lên.
“Sachs!” Rhyme há hốc miệng.
Cô càng lắc mạnh hơn. “Khốn khiếp thật!”
“Không!”
Một cuộn màu trắng bé xíu rơi ra, sau đó là vài hạt thuốc nổ màu đen.
“Được rồi”, Cooper thốt lên, thở phào nhẹ nhõm. “An toàn rồi."
Anh bước lại gần và dùng một que thăm là mũi kim dài lật đẩy cuộn plastic lên một tấm kính mỏng. Xong xuôi anh bắt đầu bước với dáng đi khẽ khàng đặc trưng của các nhà hình sự học ở khắp nơi trên thế giới – lưng thẳng đứng, tay thả lỏng nhưng giữ cho mẫu vật bên trên cố định không một chút suy chuyển – và quay về chỗ đặt kính hiển vi. Anh đặt khối thuốc nổ lên vị trí quan sát.
“Dùng Magna- Brush nhé?”. Cooper hỏi, muốn nói đến một loại bột phát hiện dấu vân tay màu xám cực mịn.
“Không”, Rhyme trả lời. “Dùng thuốc nhuộm màu tím đi. Đây là dấu vân tay in trên nhựa plastic. Chúng ta cần làm thế nào để tăng thêm độ tương phản một chút.”
Cooper xịt dung dịch thuốc, rồi đặt tấm kính dưới ống kính quan sát của kính hiển vi.
Hình ảnh đồng thời vụt hiện lên trên màn hình máy tính của Rhyme.
“Có thế chứ!” Anh thốt lên. “Nó kia kìa!”
Những đường xoắn và rẽ nhánh hiện lên rõ mồn một.
“Cô túm đúng tổ chuồn chuồn rồi, Sachs. Làm tốt lắm.”
Trong khi Cooper chậm rãi xoay đầu cuộn thuốc nổ, Rhyme thực hiện việc chụp ảnh liên tiếp hình ảnh trên màn hình – định dạng ảnh kiểu bitmap – rồi lưu chúng lại trên ổ cứng máy tính. Sau đó anh lắp ghép chúng lại và in ra thành một bản phim bạc hai chiều duy nhất.
Nhưng người kỹ thuật viên thở dài khi anh kiểm tra bức ảnh.
“Sao thế?” Rhyme hỏi.
“Vẫn chưa đủ để đối chiếu. Một chiều là 1/4 inch, chiều kia là 5/8 inch. Không AFIS nào trên thế giới có thể đưa ra được kết quả từ mẫu vân tay này.”
“Lạy Chúa”, Rhyme gầm lên. “Tất cả những cố gắng… và nguy hiểm… thành công cốc.”
Một tràng cười vang bỗng vang lên.
Từ Amelia Sachs. Cô đang đăm đăm nhìn lên tường, lên những bảng sơ đồ bằng chứng. HT- Một, HT-Hai…
“Ghép chúng lại với nhau”, cô thốt lên.
“Sao cơ?”
“Chúng ta đã có ba dấu vân tay không hoàn chỉnh”, cô giải thích. “Có lẽ tất cả đều là dấu vân tay trên ngón trỏ của hắn. Các anh không thể ghép chúng lại với nhau được à?”
Cooper băn khoăn nhìn Rhyme. “Tôi chưa bao giờ nghe nói đến cách làm này.”
Cả Rhyme cũng chưa. Nhiệm vụ cốt yếu của ngành khoa học hình sự là phân tích bằng chứng để đưa ra trước tòa – bản thân từ “pháp y” cũng đã có hàm nghĩa là “liên quan đến tòa án, thủ tục tố tụng” – và một tay luật sư biện hộ sừng sỏ sẽ không đời nào chịu để yên chuyện nếu biết cảnh sát dùng trò lắp ghép các dấu vân tay rời rạc của hung thủ lại với nhau.
Nhưng ưu tiên của họ là tìm ra tên Vũ công, chứ có phải tìm bằng chứng để kiện hắn ra tòa đâu cơ chứ.
“Nhất định là được”, Rhyme nói. “Hãy làm đi.”
Cooper với lấy những tấm ảnh chụp dấu vân tay khác của tên Vũ công đang đính trên tường và đặt chúng lên bàn làm việc trước mặt mình.
Họ bắt tay vào làm việc, Sachs và người kỹ thuật viên. Cooper chụp lại những tấm ảnh, giảm bớt kích cỡ của chúng xuống cho thống nhất với nhau. Sau đó anh và Sachs bắt đầu ghép chúng lại như người đang chơi trò ghép hình. Họ chẳng khác gì những đứa trẻ đang phấn khích thử nghiệm các phương án khác nhau, sắp xếp, thử đi thử lại và say sưa cãi vã. Sachs còn hăng hái đến nỗi lấy ra một cây bút và vẽ thêm vài đường nối liền khoảng trống trên tấm ảnh.
“Ăn gian nhé”, Cooper đùa.
“Nhưng cứ khớp là được còn gì”, cô thốt lên với vẻ đắc thắng.
Cuối cùng họ cũng cắt và dán xong một bức ảnh trọn vẹn. Thực ra nó cũng chỉ bằng 3/4 kích thước của một dấu vân tay bình thường, có lẽ là ngón trỏ bên tay phải.
Cooper giơ tấm ảnh lên. “Tôi không dám tin vào vụ này cho lắm, Lincoln ạ.”
Nhưng Rhyme nói, “Đó là nghệ thuật mà, Mel. Đẹp thật đấy!”.
“Cho kiểm tra qua AFIS đi. Đặt lệnh kiểm tra với mức ưu tiên cao nhất. Tất cả các bang,”
“Ôi trời”, Cooper thốt lên. “Thế thì coi như đi tong khoản lương cả năm của tôi rồi.”
Anh quét tấm ảnh vào máy tính.
“Có lẽ sẽ phải mất đến nửa tiếng đồng hồ”, Cooper nói, hoàn toàn thực tế chứ không phải bi quan.
Nhưng hóa ra cũng không lâu đến mức đó. Đúng năm phút sau – chỉ vừa đủ thời gian để Rhyme bắt đầu tự hỏi ai sẽ là người có thiện chí rót cho anh chút rượu, Sachs hay Cooper – màn hình máy tính đã nhấp nháy và một hình ảnh mới vụt hiện lên.
Yêu cầu của bạn đã nhận được… một kết quả khớp. Tỷ lệ đối chiếu là 14%. Xác suất nhận diện thống kê: 97%.
“Ôi lạy Chúa”, Sachs thốt lên. “Chúng ta tóm được hắn rồi.”
“Hắn là ai, Mel?” Rhyme khẽ khàng hỏi, như thể anh sợ là nếu nói to những từ đó có thể thổi bay các electron mong manh trên màn hình máy tính.
“Hắn không còn là tên Vũ công nữa”, Cooper nói. “Hắn là Stephen Robert Kall. Ba mươi sáu tuổi. Chỗ ở hiện tại: Không xác định. Lần cuối cùng được trông thấy, cách đây đã mười lăm năm, một số hiệu trong giấy gọi nhập ngũ tại Cumberland, West Virginia.”
Một cái tên quá phổ biến. Rhyme chợt nhận ra một cảm giác thất vọng rất vô lý đang len lỏi trong lòng mình. Kall.
“Tại sao hắn lại có trong hồ sơ?”
Cooper đọc to. “Câu chuyện mà hắn đã kể cho gã Jodie… Hắn phải vào trại cải tạo hai mươi tháng vì tội ngộ sát khi mới mười lăm tuổi.” Một tiếng cười khẩy. “Hình như tên Vũ công không phí công kể cho gã kia rằng nạn nhân trong câu chuyện chính là người bố dượng của hắn.”
“Bố dượng à, hừm.”
“Chỗ này khó đọc quá”, Cooper phàn nàn, mắt gí sát vào màn hình. “Trời ơi.”
“Sao vậy?”, Sachs sốt ruột hỏi.
“Những dòng ghi chú trong báo cáo của cảnh sát. Chuyện xảy ra như thế này. Có vẻ như đã từng có tiền sử xung đột gia đình. Mẹ của hắn đang chết dần vì bệnh ung thư và chồng bà ta – tức là bố dượng của Kall – đã đánh bà ta vì lỗi vớ vẩn nào đó. Bà ta ngã và bị gãy một cánh tay. Vài tháng sau bà ta qua đời và Kall nung nấu trong đầu cái suy nghĩ rằng cái chết của mẹ hắn là lỗi của Lou.”
Cooper tiếp tục đọc và người anh thực sự bắt đầu run bắn lên. “Có muốn nghe chuyện gì đã xảy ra không?”
“Cứ đọc đi.”
“Một vài tháng sau khi bà mẹ qua đời Stephen và bố dượng hắn cùng vào rừng đi săn. Thằng nhóc đã bất ngờ đánh ngất ông bố dượng, lột trần truồng ông ta ra, rồi trói vào một gốc cây trong rừng. Hắn đã để mặc ông ta như vậy nhiều ngày liền. Theo lời luật sư bào chữa thì hắn làm vậy chỉ để dọa ông bố dượng. Nhưng lúc cảnh sát đến nơi, hừm, các vị cứ hình dung là vết thương đã bị nhiễm trùng khủng khiếp. Giòi, chủ yếu là giòi. Nạn nhân chết sau đó hai ngày. Thật dã man.”
“Chúa ơi”, Sachs thì thầm.
“Khi họ tìm thấy ông ta, thằng bé cũng ở đó, hắn ngồi ngay cạnh bố dượng mình, trơ mắt nhìn.” Cooper đọc tiếp, “Kẻ tình nghi đầu hàng ngay lập tức không hề chống cự. Dường như hắn đang ở trong trạng thái hoàn toàn không bình thường. Cứ lải nhải lặp đi lặp lại, “Cái gì cũng có thể giết, cái gì cũng có thể giết”… Hắn được đưa tới Trung tâm Sức khỏe Tâm thần khu vực Cumberland để đánh giá tình trạng bệnh lý.”
Các yếu tố thuộc về tiểu sử tâm lý không khiến Rhyme thấy mặn mà cho lắm. Anh tin tưởng vào những kỹ thuật xây dựng chân dung tội phạm dựa trên bằng chứng khoa học hình sự nhiều hơn vào những chuyên gia nghiên cứu hành vi. Anh biết tên Vũ công là một kẻ biến thái – tất cả những tên giết người chuyên nghiệp đều như thế – nhưng ngay lúc này những mất mát cũng như tổn thương đã biến hắn thành con người như hiện nay cũng không giúp được gì nhiều. Anh hỏi, “Có ảnh không?”
“Không bức ảnh nào trong thời gian ở trại cải tạo vị thành niên.”
“Đúng rồi. Chó chết thật. Thế còn hồi nhập ngũ?”
“Không. Nhưng ở đây còn một tiền sự nữa.”, Cooper nói. “Hắn cố tìm cách đăng ký gia nhập lính thủy đánh bộ nhưng hồ sơ tâm lý không ổn định đã khiến hắn bị từ chối. Hắn đã săn lùng những sĩ quan tuyển quân khu vực Washington D.C. suốt mấy tháng liền và cuối cùng hắn hành hung một trung sĩ. Nhưng được hưởng án treo.”
Sellitto nói, “Chúng ta sẽ cho kiểm tra cái tên này qua chương trình FINEST, danh sách tên lỏng, và của NCIC”.
“Bảo Dellray cử ngay vài người tới Cumberland và bắt đầu theo dấu hắn”, Rhyme ra lệnh.
“Sẽ làm ngay đây.”
Stephen Kall…
Sau suốt ngần ấy năm. Cảm giác thật giống như cuối cùng cũng được tới thăm một ngôi đền linh thiêng ta đã đọc đến suốt đời nhưng chưa bao giờ có dịp tận mắt nhìn thấy.
Có tiếng gõ cửa dồn dập trên cửa làm mọi người giật mình. Theo bản năng cả Sachs và Sellitto đều vụt đưa tay xuống nắm lấy báng súng của mình.
Nhưng vị khách hóa ra chỉ là một trong những cảnh sát bảo vệ dưới nhà. Anh ta xách theo một chiếc túi to bự. “Tôi chuyển đồ lên."
“Cái gì đấy?” Rhyme hỏi.
“Một viên cảnh sát từ Illinois đến. Anh ta nói chiếc túi này được gửi đến từ Phòng Cứu hỏa và Cứu hộ hạt Du Page.”
“Là cái gì?”
Viên cảnh sát nhún vai. “Anh ta bảo là những thứ linh tinh từ lốp ô tô gì đấy. Nhưng lấy những cái đó làm gì chứ. Chắc anh ta nói đùa.”
“Không”, Rhyme nói, “đó chính xác là sự thật 100% đấy.” Anh liếc nhìn Cooper. “Những thứ được cạo ra từ lốp xe có mặt tại hiện trường vụ nổ.”
Viên cảnh sát trợn tròn mắt. “Các ông muốn cái này thật sao? Được mang tận từ Chicago đến?”
“Chúng tôi đã nín thở chờ nó lâu lắm rồi đấy.”
“Hừm. Đời nhiều lúc cũng buồn cười thật, tôi nói vậy có đúng không?”
Và tất nhiên là Lincoln Rhyme chỉ có thể gật đầu đồng ý.
Bay cũng chỉ là một phần của nghề bay chuyên nghiệp.
Nghề bay chuyên nghiệp cũng còn là công việc giấy tờ.
Nằm lăn lóc ở phía sau chiếc xe thùng đang đưa Percey Clay tới sân bay Mamarastoryck là một chồng to đùng những cuốn sách cùng với biểu đồ và tài liệu:Danh bạ cơ sở/ Sân bay, Cẩm nang Thông tin Phi công, những “Thông báo gửi phi công” do FAA phát hành – cùng những thông tư hướng dẫn, vàDanh bạ Thông tin Sân bay Jeppesen. Tất cả phải đến hàng nghìn trang. Hàng núi thông tin. Như hầu hết các phi công khác, Percey thuộc lòng tất cả những thông tin đó. Và cô không bao giờ nghĩ đến việc lái một chiếc máy bay mà không quay lại với những tài liệu gốc để nghiên cứu chúng từ đầu đến cuối, đúng theo nghĩa đen.
Với những thông tin này và chiếc máy tính của mình, cô đang bận bịu điền vào hai tài liệu cơ bản trước khi cất cánh: nhật ký bay và lịch trình bay không lưu. Trong nhật ký bay cô sẽ phải đánh dấu độ cao của họ, tính toán độ sai lệch đường bay do gió cản và biên độ dao động giữa đường bay chuẩn và đường bay từ trường, xác định ETE – tức là tổng thời gian bay dự tính trên không – để từ đó tính toán thông số thần thánh: lượng nhiên liệu họ sẽ cần cho chuyến bay. Sáu thành phố, sáu nhật ký bay khác nhau, hàng chục điểm kiểm tra giữa các chặng bay…
Rồi lại còn lịch trình bay không lưu theo quy định của FAA, đặt cạnh nhật ký bay. Một khi họ đã cất cánh, người phi công phụ sẽ kích hoạt lịch trình này bằng cách gọi cho Đài Kiểm soát Không lưu ở Mamarastoryck, sau đó đến lượt này gọi tiếp đến Chicago để thông báo về thời điểm dự tính đến nơi của chiếc Foxtrot Bravo. Nếu chiếc máy bay không đến nơi trong vòng nửa tiếng sau thời điểm dự kiến, nó sẽ được thông báo là đến chậm và các thủ tục tìm kiếm-cứu hộ sẽ bắt đầu được triển khai.
Đây là những tài liệu rất phức tạp và buộc phải được tính toán một cách hoàn hảo. Nếu như máy có nguồn cung cấp nhiên liệu không hạn chế họ hoàn toàn có thể trông cậy vào việc định hướng bay qua radio và có thể dành bao nhiêu thời gian tùy thích cho việc lượn lờ bay từ điểm này tới điểm khác ở bất kỳ độ cao nào họ muốn. Nhưng thực tế thì không chỉ nhiên liệu đã cực đắt tiền (mà tệ nhất là hai động cơ tua bin phản lực Garrett tiêu tốn lượng nhiên liệu thật kinh hoàng); mà nó còn rất nặng và riêng chi phí cho việc mang theo chúng – trong những bình nhiên liệu phụ - cũng đã ngốn mất rất nhiều tiền. Trong những chuyến bay dài, nhất là với việc nhiều lần phải cất cánh tiêu tốn nhiên liệu, việc chở theo quá nhiều xăng có thể làm giảm đáng kể khoản lợi nhuận mà Công ty đang kiếm được từ chuyến bay. Theo quy điịnh của FAA mỗi chuyến bay phải có đủ nhiên liệu để đưa máy bay đến được đích, cộng với một lượng dự trữ, trong trường hợp phải bay đêm, tương đương với bốn mươi lăm phút bay.
Vừa lướt ngón tay nhoay nhoáy trên bàn phím máy tính, Percey Clay vừa cẩn thận điền hết các mục trong hai mẫu tài liệu bằng kiểu chữ viết tay rất rõ ràng của mình. Cẩu thả trong tất cả những thứ khác trong đời mình, nhưng riêng với việc bay thì cô lại cực kỳ tỉ mỉ. Chỉ riêng việc điền thông tin về các tần số của ATIS[98] và biên độ dao động do từ trường cũng làm cô thích thú. Cô không bao giờ quá bủn xỉn, cũng không bao giờ quá phóng tay nếu như công việc yêu cầu sự tính toán chính xác. Tối hôm nay, cô lại càng đắm chìm trong công việc.
Roland Bell ngồi bên cạnh cô. Trông anh thật phờ phạc và ủ rũ. Không còn thấy bóng dáng của người đàn ông vui tính và dí dỏm lúc đầu. Cô thấy buồn cho anh, cũng giống như cô thấy buồn cho bản thân mình; có vẻ như Brit Hale là nhân chứng đầu tiên anh không bảo vệ được. Cô cảm thấy một sự thôi thúc thật khó hiểu muốn được chạm vào cánh tay anh, được an ủi anh, giống như anh đã làm với cô. Nhưng dường như anh thuộc mẫu người muốn thích khép mình lại mỗi khi gặp mất mát; bất kỳ sự cảm thông nào cũng chỉ khiến mọi việc thêm tồi tệ. Anh cũng giống hệt cô, Percey tự nhủ. Bell chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ của chiếc xe thùng, bàn tay chốc chốc lại nắm lấy phần báng nhựa màu đen kẻ chéo của khẩu súng đeo trong bao dưới nách.
Đúng lúc cô vừa điền xong tờ khai lịch trình bay không lưu cuối cùng, chiếc xe thùng rẽ vào góc đường dẫn vào sân bay, dừng lại theo hiệu lệnh của những người bảo vệ có vũ trang, những người này kiểm tra giấy tờ của mọi người trong xe rồi vẫy tay cho họ vào.
Percey chỉ cho xe chạy tới chiếc hangar nhưng cô để ý thấy là đèn trong khu văn phòng vẫn sáng. Cô yêu cầu những chiếc xe dừng lại và cô trèo ra ngoài, trong khi Bell và những cảnh sát bảo vệ khác bước hai bên cô, cảnh giác và căng thẳng, cùng đi vào trong khu chính của văn phòng.
Chú thích
[98]ATIS (viết tắt của Automatic Terminal Information Service): Dịch vụ Thông tin Tự động khu vực sân bay.
Ron Talbot với bộ dạng thật nhàu nhĩ và kiệt sức, đang ngồi trong văn phòng, tay không ngừng lau vầng trán hói đẫm mồ hôi. Mặt ông ta đỏ bầm trông thật đáng ngại.
“Ron...” Cô hớt hải bước lên phía trước. “Anh không sao đấy chứ?”
Họ ôm chầm lấy nhau
“Brit”, ông ta thốt lên, lắc đầu bàng hoàng, hổn hển. “Hắn đã hại cả Brit nữa. Percey lẽ ra cô không nên tới đây. Hãy tới chỗ nào đó an toàn. Quên chuyện chuyến bay đi. Không đáng để mạo hiểm vậy đâu.”
Cô bước lùi lại. “Có chuyện gì thế? Anh ốm à?”
“Chỉ là mệt mỏi thôi.”
Cô giật điếc thuốc lá ra khỏi tay ông ta và dụi tắt nó đi. “Anh tự mình thực hiện những công việc đó à? Trên chiếc Foxtrot Bravo ấy?”
“Tôi…”
“Ron?”
“Cũng chỉ là hầu hết thôi. Nó gần xong xuôi rồi. Thằng cha ở Northeast đã mang đến đây bình cứu hoả thay thế và động cơ vòng xuyến annular cách đây khoảng một giờ. Tôi đã bắt đầu lắp chúng rồi đấy chứ. Chỉ là hơi mệt một chút thôi.”
“Lại những cơn đau ngực à?”
“Không, cũng không hẳn thế.”
“Ron, anh về nhà đi.”
“Tôi có thể…”
“Ron”, cô xẵng giọng. “Tôi vừa mất hai người thân yêu trong vòng có hai ngày qua. Tôi sẽ không chịu mất thêm người thứ ba đâu… Tôi có thể lắp động cơ annular mà. Dễ như ăn bánh thôi, có gì đâu.”
Trông Talbot như thể ông ta thậm chí còn không đủ sức cầm một chiếc cờ lê, chứ đừng nói đến chuyện khiêng một buồng đốt động cơ nặng trịch.
Percey hỏi, “Brad đâu rồi?”. Người phi công phụ cho chuyến bay.
“Đang trên đường tới. Sẽ có mặt ở đây trong vòng một giờ nữa.”
Cô hôn lên vầng trán bết mồ hôi của ông ta. “Anh về nhà đi. Và đừng có đốt thuốc nữa, vì Chúa. Anh có bị điên không?”
Ông ta ôm lấy cô. “Percey, về chuyện của Brit…”
Cô giơ một ngón tay lên môi và suỵt khẽ để ngăn ông ta lại. “Về nhà ngay. Cố chợp mắt lấy một chút. Khi anh tỉnh giấc thì tôi đã ở Erie rồi và chúng ta sẽ giành lại được bản hợp đồng đó. Đã ký, đóng dấu và trao tận tay.”
Ông ta loạng choạng gượng dậy, đứng sững một chút chăm chú nhìn chiếc Foxtrot Bravo bên ngoài cửa sổ. Khuôn mặt lộ rõ một vẻ cay đắng và chua chát. Cô còn nhớ cũng chính là vẻ mặt đó khi ông ta cho cô biết việc ông ta không qua được bài kiểm tra thể lực và không bao giờ còn có thể kiếm sống bằng nghề bay được nữa. Talbot đi thẳng ra cửa.
Đã đến lúc bắt tay vào công việc. Cô xắn hai ống tay áo lên, ra hiệu cho Bell bước lại gần mình. Anh cúi thấp đầu xuống phía cô theo cách mà cô thấy thật quyến rũ làm sao. Giống hệt như tư thế của Ed mỗi lần anh cúi xuống nghe cô thì thầm gì đó. Cô nói, “Tôi sẽ cần khoảng vài giờ trong hangar. Anh có thể giữ tên chó đẻ đó tránh xa tôi cho đến lúc đó không?”.
Không còn những câu văn hoa trịnh trọng, không còn kiểu thoả thuận chắc nịch ban đầu. Roland Bell, người đàn ông với hai khẩu súng, gật đầu với vẻ nghiêm túc, ánh mắt tinh nhanh như điện xẹt đảo hết chỗ này sang chỗ khác.
Trong tay họ lúc này là một điều bí hiểm.
Cooper và Sachs đã kiểm tra tất cả những dấu vết tìm được trong lốp của những chiếc xe cứu hoả ở Chicago cùng xe cảnh sát có mặt tại hiện trường vụ nổ đã giết chết Ed Carney. Đó là một mớ hỗn độn toàn đất bẩn vô tích sự, phân chó, cỏ, dầu và rác rưởi linh tinh mà Rhyme biết chắc là kiểu gì cũng có. Nhưng họ đã có một phát hiện mà anh linh cảm thấy là rất quan trọng.
Chỉ có điều anh hoàn toàn không biết ý nghĩa của nó là gì.
Chút bằng chứng duy nhất cho thấy dấu hiệu của dư chất thuốc nổ từ quả bom là những mẩu vụn ti li của một chất rất dẻo màu be. Mấy phân tích vật chất bằng sắc ký khí/phổ kế khối lượng cho thấy đó là chất C5H8.
“Isoprene”, Cooper thông báo.
“Là chất gì vậy?”, Sachs đã hỏi ngay.
“Cao su”, Rhyme trả lời.
Cooper nói tiếp. “Tôi cũng nhận thấy có một số acid béo. Thuốc nhuộm, bột tan.”
“Có chất làm cứng nào không?”, Rhyme hỏi. “Đất sét? Magnesium carbonate? Oxide kẽm?”
“Chẳng có gì.”
“Có nghĩa đây là cao su mềm. Như latex.”
“Và cả những mẩu vụn nhỏ của keo gắn cao su nữa”, Cooper bổ sung; căng mắt quan sát một mẫu hợp chất qua ống kính hiển vi điện tử. “Bingo[99]!” Anh thốt lên.
“Đừng có đùa bỡn nữa, Mel”, Rhyme làu bàu.
“Có mấy mẩu chất hàn và những vụn li ti bằng nhựa nằm lẫn trong cao su. Bảng mạch điện.”
“Nằm trong thiết bị hẹn giờ chăng?”, Sachs nói ra mối băn khoăn của mình.
“Không, thiết bị hẹn giờ còn nguyên vẹn kia mà”, Rhyme nhắc cô.
Anh có cảm giác họ đang chuẩn bị phát hiện được điều gì đó rất quan trọng. Nếu như đây là một phần của quả bom, rất có thể nó sẽ cho họ biết thêm một đầu mối về nguồn gốc của loại thuốc nổ được sử dụng hoặc một thành phần nào đó.
“Chúng ta phải xác định chắc chắn liệu những cái này là từ quả bom hay từ chính chiếc máy bay. Sachs, tôi muốn cô chịu khó tới sân bay một chuyến.”
“Sân bay…”
“Mararastoryck. Hãy tìm Percey và yêu cầu cô ấy cung cấp cho cô mẫu của tất cả những thứ có thành phần chứa latex, cao su, hoặc những mạch điện được gắn ở bụng của chiếc máy bay giống như chiếc mà Carney đã lái ấy. Gần vị trí quả bom phát nổ. Còn anh, Mel, hãy gửi những thông tin này tới ERC, rồi kiểm tra luôn cả ở Cục Điều tra Hình sự Quân đội – biết đâu bên quân đội lại sử dụng thiết bị nổ nào đó có bọc lớp vỏ latex chống thấm nước thì sao. Có thể từ đó chúng ta sẽ lần ra nguồn gốc của quả bom.”
Cooper bắt đầu gõ lệnh kiểm tra trên máy tính, nhưng Rhyme để ý thấy Sachs có vẻ không được hài lòng cho lắm với nhiệm vụ của mình.
“Anh muốn tôi đến gặp và nói chuyện với chị ta sao?”, cô hỏi. “Với Percey ấy?”
“Đúng. Đó chính là những gì tôi đang nói đấy thôi.”
“Được rồi.” Cô thở dài. “Chẳng sao cả.”
“Và đừng có gây khó dễ gì cho cô ấy như cô vẫn làm từ đầu đến giờ. Chúng ta cần sự hợp tác của cô ấy.”
Rhyme hoàn toàn không hiểu tại sao cô lại giật lấy chiếc áo giáp chống đạn của mình một cách cực kỳ giận dữ và hầm hầm bước thẳng ra khỏi phòng mà không thèm nói cả lời tạm biệt.
Chú thích
[99]Bingo: Một trò xổ số rất phổ biến ở Mỹ, được chơi với những tấm các có đánh số. Người chơi thường hô “Bingo” để báo mình là người trúng giải.