Chương 19: Lạc phong trai
Rốt cuộc một bàn đầy ắp đồ ăn ngon cũng tốn công vô ích, Quý Bồ không chờ được người, thế nhưng nhận được một bình thuốc.
Bình thuốc thoạt nhìn trông khá là bình thường, không nhìn ra được gì, trên thân bình dán một mẩu giấy nhỏ ghi "Có thể trị cô chẩm", từng nét theo đầu bút long tiêu sái uyển chuyển cực kỳ dứt khoát.
Quý Bồ cầm một viên thuốc lên mũi ngửi thử, hắn có thể phát hiện trong bên trong thành phần có chút thảo dược đông y trị an thần tĩnh khí.
"Hắn đưa đến sao?" Quý Bồ đưa tờ giấy cho Giang Diễn.
Giang Diễn hờ hững lướt mắt nhìn ra, không nhận ra được nét chữ: "Hắn không muốn gặp chúng ta, vậy mà có lòng đưa thuốc đến? E sợ là có trò bịp gì, vẫn là nên cẩn thận một chút."
Nhìn dáng vẻ cảnh giác của Giang Diễn, Quý Bồ trái lại vô cùng hứng thú: "Người này đúng là thú vị, nếu như hắn một lòng muốn đưa Bạch Bỉnh Thần vào chỗ chết, chỉ cần ngồi im không làm gì là được rồi, hà tất phải làm chi ba cái chuyện thừa thãi."
Hắn vuốt ve bình thuốc: "Lần này Bạch Bỉnh Thần có thể xem như là gặp đúng kình địch, ngay cả ta cũng không chế ra thuốc giải, hắn còn tự tiện đưa cho, không biết rốt cuộc hắn ta là người như thế nào."
Quý Bồ nghĩ, Mai Thiều không nói chẳng rằng, chỉ đưa bình thuốc giải tới, có lẽ chỉ là đơn thuần không muốn chạm mặt với mình. Hoặc người này có thân phận nào khác trên giang hồ, vì thế nên không muốn bại lộ.
Cả bụng Quý Bồ đầy ắp hoài nghi, thành ra vừa về tới Bạch phủ liền nhốt mình trong phòng nghiên cứu thuốc giải đưa tới cửa không công này, thuận tiện muốn nhờ vào đó tra ra chút thân phận của Mai Thiều.
Cùng lúc đó, Mai Thiều được đối phương nhớ đến đang từ Lãm Vị các về Hiệp Ân vương phủ, vừa về tới cửa đã nhận được ý chỉ tiến cung.
Hơn mười mấy ngày trời, tin tức Tấn tây hầu bệnh nặng rốt cuộc cũng truyền tới tai thánh giá.
Tấn tây hầu háo sắc, thê thiếp thành đàn, nhưng gã chỉ có ba người con trai, thế nhưng đứa nào cũng bất tài, hiện tại đang ở trước giường bệnh Ngô Sách tranh đoạt vị trí kế thừa của phụ thân mình đến mức ầm ĩ không sao can ngăn được. Còn những tướng lính có chút nổi trong quân cung dồn dăp chia phe phái chọn hủ ngấm ngầm trong tối đấu đá nhau.
Cục diện Tấn tây bắt đầu không ổn định, mà theo tin tức Tấn tây hầu bệnh nặng vào triều, còn có tin Ngô Sách gửi cho Lăng Triệt một phong thư.
Đang trong lúc bệnh nặng, Ngô Sách nằm lì trên giường hiếm khi tỉnh táo, gã thông qua nói miệng viết cho tâm phúc của mình một phong thư, sau đó tìm cách gửi cho Lăng Triệt đang ở ngàn dặm xa xôi kia hối thúc hắn về Tấn tây chủ trì đại cục.
Triệu Trinh suy nghĩ sâu xa, tuy rằng Tấn tây không hỗn loạn đến mức ảnh hưởng quá nhiều, thế nhưng cánh quân một phương đổi chủ ắt sẽ lay động ảnh hưởng thành chuyện lớn, chỉ cần hơi bất cẩn một chút đi sai bước, ắt sẽ sinh ra đại loạn. Tình thế hiện tại của Ngô Sách, có lẽ gã cũng không còn hy vọng nhiều lên ba đứa con trai ù lì của mình, mà ngắm nghía đến Lăng Triệt.
Khi Triệu Trinh mới lên ngôi gặp vị Tấn tây hầu này, khi đó thân thể của gã đã không còn cường tráng khỏe mạnh, mà là một bộ dạng túng dục quá độ. Thế nhưng trong quá trình trao đổi bàn bạc, hắn ngờ ngợ có thể hình dung ra được phong thái lĩnh binh năm xưa của đối phương. Có thể điều khiển cả một cánh quân một phương tất nhiên không phải chỉ biết xông pha chiến đấu, Ngô Sách trấn giữ phía tây nhiều năm, ắt trong người sẽ rèn ra sự thủ đoạn tâm cơ, nói không chừng đến khi lâm chung sẽ giao phó khuyên bảo Lăng Triệt cưới con gái mình, để hắn cam tâm tình nguyện trông giữ Ngô gia.
Những thông gia như vậy Triệu Trinh cũng từng gặp qua không ít, những năm gần đây hắn cũng có tự mình hạ chỉ cho vài người, việc hôn nhân giao dịch này, chẳng qua để lôi kéo triều thần, cân bằng lại tình thế bên trong, tính ra cũng là một biện pháp tốt.
Hắn có nghĩ ra cách dùng Triệu Cảnh Hòa đổi lấy quyền lực nắm giữ Tấn tây quân của Lăng Triệt, thì Ngô Sách cũng có thể nghĩ ra biện pháp tương tự để bảo vệ địa vị của Ngô gia. Kế sách này của hắn diễn ra suông sẻ, trong lúc Triệu Cảnh Hòa luận võ chọn rể vẫn chưa lan tin đến Tấn tây, đên khi Lăng Triệt trở lại, thì hôn sự xem như đã định sẵn.
Hắn dùng lời nói của mình ám hiệu Mai Thiều, Mai Thiều nghe xong liền đi đến Lạc phong trai cầu xin ngày lành tháng tốt của hai người.
Mặc dù Lạc Phong trai xây ở dưới hoàng cung, nhưng bình thường ít có người lui tới.
Ở trong tòa trai này có trồng một cây phong, bình thường cỏ rợp lá xanh cũng không làm người khác chú ý, gió thu vừa lên thổi đỏ một mảnh, những cung nhân đã quen nhìn khung cảnh nhạt nhòa nơi đây chợt chú ý tới góc yên tĩnh này. Cây phong hiện tại đang trong thời kỳ ấp ủ, cảnh cây vươn dài thế nhưng trơ trọi xám xịt, khiến cho Lạc Phong trai hệt như miếu xưa trong thôn hoang vắng, thoạt nhìn lộ ra một bầu không khí thê lương.
Lạc Phong trai có ba điều kỳ lạ.
Điều kỳ lạ đầu tiên chinh là bố cục nơi đây, người bình thường chú trọng vào bố cục phong thủy, thích cái đẹp cùng thanh nhã, cây cối trong phủ chọn những cây cao lâu đời, khiến cho cảnh quan một năm bốn mùa đều xanh um tươi tốt, phồn thịnh rậm rạp thì đó mới là dấu hiệu tốt. Nếu như cảm thấy cây xanh thôi quá đơn điệu, thì cũng có thể thêm chút hoa cỏ cây cối theo mùa, mặc dù phải thay đổi theo bốn mùa, thế nhưng thảm thực vật trong viện phải luôn rực rỡ. Thế nhưng ở Lạc Phong trai này chỉ trồng duy nhất môt loại cây phong, quanh năm chỉ nở một mùa, thật sự là kỳ quái.
Điều lạ thứ hai tu đạo ở đây không gọi là quan, mà gọi trai.
Vốn ở Lê quốc Phật và Đạo song song, nhưng người quốc sư tôn sùng là người theo đạo, nên thoạt nhìn sẽ nghĩ Đạo gia địa vị ca hơn Phật gia một bậc. Những vị đạo sĩ hòa thường ở dân gian cũng thường vì chuyện này mà tranh luận, thế nhưng hiếm có ai biết, tông sư Đạo gia, cũng là sư phụ của quốc sư Thanh Huyền – lão đạo Vô Ngã cùng tông sư Phật gia – tiểu từ hòa thượng ở Thiên Phật tự là bạn thân của nhau.
Điều kỳ lạ thứ ba chính là ở nơi đây đạo sĩ Vô Ngã thường ngao du khắp nơi, ít khi nghe được tung tích.
Nói dễ nghe chút, Vô Ngã chính là tìm hiểu đạo pháp đột nhiên ngấm được tinh túy, sau đó sống bừa bãi tiêu sái, ngẫm nghĩ kỹ càng, lão chính là tục nhân tu đạo tu đến xấu đầu óc, ngôn ngữ điên loạn, hành động xằng bậy, điên điên khùng khùng. Hai đều kỳ lạ trong ba điều kia cũng do một tay lão quái nhân làm ra.
Lúc Thanh Huyền vừa tu đạo, hắn cũng từng hỏi qua, tại sao nơi đây không gọi là "quan" mà là "trai."
Vô Ngã đang nằm dưới đất tắm nắng, ngay cả mặt mũi ũng không thèm động đậy ồm ồm trả lời: "Trai giả, là một chỗ ẩm thực. Đạo gia Phật gia, thiên hạ có ai không dựa vào đâu chứ. Ta lấy tên này, chính là muốn bắt bí lấy mạch máu của thiên hạ này."
(*) ý chỉ những chuyện quan trọng. Ý của lão chắc là quan chỉ là nơi tu, còn trai vừa có thể theo đạo vừa có thể ăn uống, ví là những chuyện quan trọng của con người.
Gã giơ cánh tay dính đầy bùn che mặt mình, vô thức nắm chặt tay cuộn thành nắm đấm, sau đó nhìn đồ đệ mình khoe khOang: "Thiên Phật tự dựa vào đèn nhan thế nhân, mà thế nhân chỉ ở trong lòng bàn tay ta, ta thấy lão hòa thượng kia cứ hay khoe khoang với ta là miếu chùa của gã phồn thịnh, đồ đệ này, ngươi nhất định không được để ta thua kém, ta thấy vị trí quốc sư này rất hợp với ngươi, ngươi thay sư phụ kia ngồi lên bắt chẹt chèn ép lão hòa thượng kia chút đi."
Cứ như vậy, một người mới nhập môn như Thanh Huyền đã bị ép ngồi lên vị trí quốc sư, một người căn bản còn chưa thuộc qua "Đạo Đức Kinh", cứ nhắm mắt làm quốc sư mấy năm trời, rốt cuộc cũng có thể nói ra được đôi ba câu khách sáo đẹp mặt, tính ngày lành tháng tốt cho hoàng gia, đoán chút mệnh cho mấy quý nhân, xem như bịa chuyện cũng bịA đến mức mặt không biến sắc tim không đập. Nếu như tiểu từ đại sư nhìn thấy hắn, có khi cũng sẽ lên tiếng ca nợi hắn đã đạt tới cảnh giới dao động lòng người của Vô Ngã.
Chỉ khác một điều là, lão đạo sĩ đã là một người lọc lõi(*), dù khó đến đâu cũng không làm khó lão, tHế nhưng Thanh Huyền vẫn chưa sành sõi, cho nên chỉ dám nói dối những chuyện đại sự không mấy quan trọng, ngày thường vẫn là dáng vẻ cẩn thận chú trọng tu hành, cũng e như xứng với hình tượng "quốc sư" mà người đời ảo tưởng.
— châm biếm người có nhiều kinh nghiệm nhưng láu lỉnh
Hiện tại, vị quốc sư này đang pha trà trong viện, cây phong trong viện đã bắt đầu thay lá, những chiếc lá xanh nhàn nhạt ở trong tòa viện sáng phủ vàng này trông có vẻ thưa thớt trống vắng.
Thanh Huyền mặc một thân y phục vàng, sau lưng là họa tiết ngũ hành bát quái. Hắn vẫn đang cau mày, dường như đã quên mất trình tự pha trà, tay vẫn cầm chung kia do dự.
Ngay lúc trốn mắt, đột nhân xuất hiện một cánh tay tiếp nhận lấy chung trà kia.
Nhìn thấy người tới, trong mắt Thanh Huyền lộ ra chút kinh ngạc, sau đó nhanh chóng mừng rở: "Về Bình Đô khi nào?"
Dường như cố nhân xa cách đã lâu không gặp, Mai Thiều cũng không vội khách sáo trò chuyện cùng đối phương, mà chỉ cầm lấy chung trà bắt đầu pha trà theo trình tự, vừa nhìn liền cảm thấy y so với cái người "nửa chừng"(*) này thành thạo hơn nhiều.
(*) Gốc là 半路出家. Ý nói lúc đầu không định làm việc này, nhưng sau lại chuyển sang làm việc này
Thanh Huyền cũng không lên tiếng, cứ lẳng lặng mà nhìn Mai Thiều pha trà, sau một lúc, một chung trà ngon được đẩy lên trước mặt mình.
Thanh Huyền bưng lên thưởng thức mới nói: "Xuôi nam sáu năm, tay nghề vẫn còn tốt."
"Lúc trước, ngươi chính là xem thường tay nghề pha trà của ta nhất trong đám con cháu thế gia, cứ nói ta học đòi văn vẻ. BÂy giờ sao lại học theo rồi?"
"Ngoại trừ tế tự bói toán, Lạc Phong trai cũng xem như thanh tĩnh, suốt ngày rỗi rành không có gì làm nên mới tìm một số chuyện giết thời gian."
Lạc Phong trai qua yên tĩnh, ngay cả mặt trời cũng thường xuyên di chuyển chậm rất chậm soi đến đây, đặc biệt là đến mùa thu, từng chiếc lá cứ rơi rụng, ngay khi ôm chăn vào mộng cũng nghe thấy tiếng lá xào xạc.
Lúc mới tới đây, Thanh Huyền có chút không quen. Bên trong Lạc Phong trai chỉ có một mình hắn, ngày qua ngày đều là một mình hắn ngồi trong viện này mà qua. Qua một khoảng thời gian sống như vậy, khiến hắn từ từ nhớ tới nhưng ngày tháng trả ân báo thù kia, dần dần tôi luyện thành bản tính trầm ổn, không còn nghĩ tới chuyện xưa mà hãm sâu đau khổ nữa.
Ngày lại qua ngày, thứ ở bên cạnh chỉ có cây phong.
"Những năm gần đây khỏe không?"
Cả hai chào hỏi nhau xong liền bắt đầu im lặng, một lúc sau, cả hai lại đồng thanh lên tiếng hỏi, vô hình chung phá vỡ chút ngăn cách khiến cả hai cũng bất giác nở nụ cười.
Trong mắt Thanh Huyền ẩn chút ý cười: "Vất vả đến phương nam, đến một nơi xa xôi, ta không nghĩ tới ngươi sẽ chọn trở về."
"Chúng ta đã từng cảm thấy giang hồ này mênh mông, là một địa phương thích thú, cuối cùng vẫn lựa chọn rời đi." Mai Thiều xoay xoay chung trà trong tay: "Chỉ khác ở chỗ, ta đang đối mặt, còn ngươi vẫn trốn tránh. Qua nhiều năm như vậy ngươi vẫn chưa chịu buông xuống sau? Ngươi không chịu đếm xem buổi luận võ chọn rể của trưởng công chúa Cảnh Hòa, có phải là không dám đi gặp sư phụ ngươi, đi gặp đồng môn của ngươi đúng không, Hướng Vãn Địch?"
"Đúng vậy." Thanh Huyền thản nhiên trả lời, "Là chính ta không thể vượt qua tảng đá trong lòng, cảm thấy hổ thẹn với sư môn, còn là một sư đệ không ra gì, sao dám gặp lại."
Lần trước gặp mặt, hắn dùng danh tự "Hướng Vãn Địch", đeo thanh Bàn Long kiếm được Mai Thiều đưa đến bến đò, nói mình muốn rời khỏi sư môn, học hỏi kinh nghiệm trên giang hồ.
Phía dưới đất đúng lúc có trận mưa phùn, càng làm khung cảnh tiễn biệt bịn rịn có cảm xúc. Bọn họ đều ôm ấp lý tưởng hào hùng, không có chút cảm giác sầu bi gì, cho rằng buổi tiệc nào cũng phải tàn, cho nên không cần làm ra mấy chuyện thiếu tự nhiên.
Nhìn trong mắt Thanh Huyền trong mắt đã không còn ánh dương rực rỡ của ngày đó, Mai Thiều nhớ tới hai người bọn họ năm đó cũng từng ngồi đối mắt như vậy tại một quán rượu bình dân.
Khi đó hai người đều thiếu niên nhiệt huyết, không phục đối phương, thế nhưng có dùng võ công kiếm ra sao cũng khó phân cao thấp, thành ra cứ như vậy mà đánh tới khi mặt trời đều xuống núi, bầu trời bắt đầu rơi một tuyết lớn như lông ngỗng mới ngừng tay.
Hai người dắt dĩu nhau bước qua cơn gió bắc thổi phừng phực đi hồi lâu mới phát hiện quán rượu thôn dã, cách bày trì trong phòng cực kỳ đơn sơ, chỉ cắm một cây cờ ghi chữ "Tửu" có chút màu sắc ở cửa quán.
Trên chiếc bàn cũ nát, cả hai bưng chung trà sứt mẻ kia lên nhấm nháp rượu gạo còn ấm kia. Cả hai cứ lung tung uống cho no bụng, cho ấm dạ dày, bộ dạng hệt như lết từ trong đám ăn mày ra, quần áo rách rưới, tóc tai rối bời, khóe miệng còn dính tí rượu, khắp toàn thân, chỉ có con mắt sáng lấp lánh đang hiện lên bộ dạng cười sảng khoái của người trước mặt.
Cơn gió bắc lại khe khẽ luồn vào khe cửa, khi đó uống cạn vò rượu đục dân dã, tiếp tục giấc mộng to lớn ngông cuồng thuở thiếu thời.
Nay ngồi đối diện nhau, thế nhưng một thân áo bào cùng bạch y, một chung trà xanh, tự tin giữ lễ, trò chuyện cũng giữ phép.
Mai Thiều giơ lên nửa chung trà đã sớm nguội mời hắn: "Nhất thất túc thành thiên cổ hận."
Tạm dịch: một lần sảy chân để hận nghìn đời
Thanh Huyền nở nụ cười ngầm hiểu: "Tái hồi đầu dĩ bách niên thân."
Tạm dịch: khi quay đầu nhìn lại đã không còn hy vọng.
Bọn họ ai cũng không thể trở thành một kiếm khách phóng túng trên giang hồ, bệ nghễ thiên hạ.
Hai chung trà đụng nhau, một thanh âm nhỏ vang lên, đè xuống tâm tình trong lòng.
Bình thuốc thoạt nhìn trông khá là bình thường, không nhìn ra được gì, trên thân bình dán một mẩu giấy nhỏ ghi "Có thể trị cô chẩm", từng nét theo đầu bút long tiêu sái uyển chuyển cực kỳ dứt khoát.
Quý Bồ cầm một viên thuốc lên mũi ngửi thử, hắn có thể phát hiện trong bên trong thành phần có chút thảo dược đông y trị an thần tĩnh khí.
"Hắn đưa đến sao?" Quý Bồ đưa tờ giấy cho Giang Diễn.
Giang Diễn hờ hững lướt mắt nhìn ra, không nhận ra được nét chữ: "Hắn không muốn gặp chúng ta, vậy mà có lòng đưa thuốc đến? E sợ là có trò bịp gì, vẫn là nên cẩn thận một chút."
Nhìn dáng vẻ cảnh giác của Giang Diễn, Quý Bồ trái lại vô cùng hứng thú: "Người này đúng là thú vị, nếu như hắn một lòng muốn đưa Bạch Bỉnh Thần vào chỗ chết, chỉ cần ngồi im không làm gì là được rồi, hà tất phải làm chi ba cái chuyện thừa thãi."
Hắn vuốt ve bình thuốc: "Lần này Bạch Bỉnh Thần có thể xem như là gặp đúng kình địch, ngay cả ta cũng không chế ra thuốc giải, hắn còn tự tiện đưa cho, không biết rốt cuộc hắn ta là người như thế nào."
Quý Bồ nghĩ, Mai Thiều không nói chẳng rằng, chỉ đưa bình thuốc giải tới, có lẽ chỉ là đơn thuần không muốn chạm mặt với mình. Hoặc người này có thân phận nào khác trên giang hồ, vì thế nên không muốn bại lộ.
Cả bụng Quý Bồ đầy ắp hoài nghi, thành ra vừa về tới Bạch phủ liền nhốt mình trong phòng nghiên cứu thuốc giải đưa tới cửa không công này, thuận tiện muốn nhờ vào đó tra ra chút thân phận của Mai Thiều.
Cùng lúc đó, Mai Thiều được đối phương nhớ đến đang từ Lãm Vị các về Hiệp Ân vương phủ, vừa về tới cửa đã nhận được ý chỉ tiến cung.
Hơn mười mấy ngày trời, tin tức Tấn tây hầu bệnh nặng rốt cuộc cũng truyền tới tai thánh giá.
Tấn tây hầu háo sắc, thê thiếp thành đàn, nhưng gã chỉ có ba người con trai, thế nhưng đứa nào cũng bất tài, hiện tại đang ở trước giường bệnh Ngô Sách tranh đoạt vị trí kế thừa của phụ thân mình đến mức ầm ĩ không sao can ngăn được. Còn những tướng lính có chút nổi trong quân cung dồn dăp chia phe phái chọn hủ ngấm ngầm trong tối đấu đá nhau.
Cục diện Tấn tây bắt đầu không ổn định, mà theo tin tức Tấn tây hầu bệnh nặng vào triều, còn có tin Ngô Sách gửi cho Lăng Triệt một phong thư.
Đang trong lúc bệnh nặng, Ngô Sách nằm lì trên giường hiếm khi tỉnh táo, gã thông qua nói miệng viết cho tâm phúc của mình một phong thư, sau đó tìm cách gửi cho Lăng Triệt đang ở ngàn dặm xa xôi kia hối thúc hắn về Tấn tây chủ trì đại cục.
Triệu Trinh suy nghĩ sâu xa, tuy rằng Tấn tây không hỗn loạn đến mức ảnh hưởng quá nhiều, thế nhưng cánh quân một phương đổi chủ ắt sẽ lay động ảnh hưởng thành chuyện lớn, chỉ cần hơi bất cẩn một chút đi sai bước, ắt sẽ sinh ra đại loạn. Tình thế hiện tại của Ngô Sách, có lẽ gã cũng không còn hy vọng nhiều lên ba đứa con trai ù lì của mình, mà ngắm nghía đến Lăng Triệt.
Khi Triệu Trinh mới lên ngôi gặp vị Tấn tây hầu này, khi đó thân thể của gã đã không còn cường tráng khỏe mạnh, mà là một bộ dạng túng dục quá độ. Thế nhưng trong quá trình trao đổi bàn bạc, hắn ngờ ngợ có thể hình dung ra được phong thái lĩnh binh năm xưa của đối phương. Có thể điều khiển cả một cánh quân một phương tất nhiên không phải chỉ biết xông pha chiến đấu, Ngô Sách trấn giữ phía tây nhiều năm, ắt trong người sẽ rèn ra sự thủ đoạn tâm cơ, nói không chừng đến khi lâm chung sẽ giao phó khuyên bảo Lăng Triệt cưới con gái mình, để hắn cam tâm tình nguyện trông giữ Ngô gia.
Những thông gia như vậy Triệu Trinh cũng từng gặp qua không ít, những năm gần đây hắn cũng có tự mình hạ chỉ cho vài người, việc hôn nhân giao dịch này, chẳng qua để lôi kéo triều thần, cân bằng lại tình thế bên trong, tính ra cũng là một biện pháp tốt.
Hắn có nghĩ ra cách dùng Triệu Cảnh Hòa đổi lấy quyền lực nắm giữ Tấn tây quân của Lăng Triệt, thì Ngô Sách cũng có thể nghĩ ra biện pháp tương tự để bảo vệ địa vị của Ngô gia. Kế sách này của hắn diễn ra suông sẻ, trong lúc Triệu Cảnh Hòa luận võ chọn rể vẫn chưa lan tin đến Tấn tây, đên khi Lăng Triệt trở lại, thì hôn sự xem như đã định sẵn.
Hắn dùng lời nói của mình ám hiệu Mai Thiều, Mai Thiều nghe xong liền đi đến Lạc phong trai cầu xin ngày lành tháng tốt của hai người.
Mặc dù Lạc Phong trai xây ở dưới hoàng cung, nhưng bình thường ít có người lui tới.
Ở trong tòa trai này có trồng một cây phong, bình thường cỏ rợp lá xanh cũng không làm người khác chú ý, gió thu vừa lên thổi đỏ một mảnh, những cung nhân đã quen nhìn khung cảnh nhạt nhòa nơi đây chợt chú ý tới góc yên tĩnh này. Cây phong hiện tại đang trong thời kỳ ấp ủ, cảnh cây vươn dài thế nhưng trơ trọi xám xịt, khiến cho Lạc Phong trai hệt như miếu xưa trong thôn hoang vắng, thoạt nhìn lộ ra một bầu không khí thê lương.
Lạc Phong trai có ba điều kỳ lạ.
Điều kỳ lạ đầu tiên chinh là bố cục nơi đây, người bình thường chú trọng vào bố cục phong thủy, thích cái đẹp cùng thanh nhã, cây cối trong phủ chọn những cây cao lâu đời, khiến cho cảnh quan một năm bốn mùa đều xanh um tươi tốt, phồn thịnh rậm rạp thì đó mới là dấu hiệu tốt. Nếu như cảm thấy cây xanh thôi quá đơn điệu, thì cũng có thể thêm chút hoa cỏ cây cối theo mùa, mặc dù phải thay đổi theo bốn mùa, thế nhưng thảm thực vật trong viện phải luôn rực rỡ. Thế nhưng ở Lạc Phong trai này chỉ trồng duy nhất môt loại cây phong, quanh năm chỉ nở một mùa, thật sự là kỳ quái.
Điều lạ thứ hai tu đạo ở đây không gọi là quan, mà gọi trai.
Vốn ở Lê quốc Phật và Đạo song song, nhưng người quốc sư tôn sùng là người theo đạo, nên thoạt nhìn sẽ nghĩ Đạo gia địa vị ca hơn Phật gia một bậc. Những vị đạo sĩ hòa thường ở dân gian cũng thường vì chuyện này mà tranh luận, thế nhưng hiếm có ai biết, tông sư Đạo gia, cũng là sư phụ của quốc sư Thanh Huyền – lão đạo Vô Ngã cùng tông sư Phật gia – tiểu từ hòa thượng ở Thiên Phật tự là bạn thân của nhau.
Điều kỳ lạ thứ ba chính là ở nơi đây đạo sĩ Vô Ngã thường ngao du khắp nơi, ít khi nghe được tung tích.
Nói dễ nghe chút, Vô Ngã chính là tìm hiểu đạo pháp đột nhiên ngấm được tinh túy, sau đó sống bừa bãi tiêu sái, ngẫm nghĩ kỹ càng, lão chính là tục nhân tu đạo tu đến xấu đầu óc, ngôn ngữ điên loạn, hành động xằng bậy, điên điên khùng khùng. Hai đều kỳ lạ trong ba điều kia cũng do một tay lão quái nhân làm ra.
Lúc Thanh Huyền vừa tu đạo, hắn cũng từng hỏi qua, tại sao nơi đây không gọi là "quan" mà là "trai."
Vô Ngã đang nằm dưới đất tắm nắng, ngay cả mặt mũi ũng không thèm động đậy ồm ồm trả lời: "Trai giả, là một chỗ ẩm thực. Đạo gia Phật gia, thiên hạ có ai không dựa vào đâu chứ. Ta lấy tên này, chính là muốn bắt bí lấy mạch máu của thiên hạ này."
(*) ý chỉ những chuyện quan trọng. Ý của lão chắc là quan chỉ là nơi tu, còn trai vừa có thể theo đạo vừa có thể ăn uống, ví là những chuyện quan trọng của con người.
Gã giơ cánh tay dính đầy bùn che mặt mình, vô thức nắm chặt tay cuộn thành nắm đấm, sau đó nhìn đồ đệ mình khoe khOang: "Thiên Phật tự dựa vào đèn nhan thế nhân, mà thế nhân chỉ ở trong lòng bàn tay ta, ta thấy lão hòa thượng kia cứ hay khoe khoang với ta là miếu chùa của gã phồn thịnh, đồ đệ này, ngươi nhất định không được để ta thua kém, ta thấy vị trí quốc sư này rất hợp với ngươi, ngươi thay sư phụ kia ngồi lên bắt chẹt chèn ép lão hòa thượng kia chút đi."
Cứ như vậy, một người mới nhập môn như Thanh Huyền đã bị ép ngồi lên vị trí quốc sư, một người căn bản còn chưa thuộc qua "Đạo Đức Kinh", cứ nhắm mắt làm quốc sư mấy năm trời, rốt cuộc cũng có thể nói ra được đôi ba câu khách sáo đẹp mặt, tính ngày lành tháng tốt cho hoàng gia, đoán chút mệnh cho mấy quý nhân, xem như bịa chuyện cũng bịA đến mức mặt không biến sắc tim không đập. Nếu như tiểu từ đại sư nhìn thấy hắn, có khi cũng sẽ lên tiếng ca nợi hắn đã đạt tới cảnh giới dao động lòng người của Vô Ngã.
Chỉ khác một điều là, lão đạo sĩ đã là một người lọc lõi(*), dù khó đến đâu cũng không làm khó lão, tHế nhưng Thanh Huyền vẫn chưa sành sõi, cho nên chỉ dám nói dối những chuyện đại sự không mấy quan trọng, ngày thường vẫn là dáng vẻ cẩn thận chú trọng tu hành, cũng e như xứng với hình tượng "quốc sư" mà người đời ảo tưởng.
— châm biếm người có nhiều kinh nghiệm nhưng láu lỉnh
Hiện tại, vị quốc sư này đang pha trà trong viện, cây phong trong viện đã bắt đầu thay lá, những chiếc lá xanh nhàn nhạt ở trong tòa viện sáng phủ vàng này trông có vẻ thưa thớt trống vắng.
Thanh Huyền mặc một thân y phục vàng, sau lưng là họa tiết ngũ hành bát quái. Hắn vẫn đang cau mày, dường như đã quên mất trình tự pha trà, tay vẫn cầm chung kia do dự.
Ngay lúc trốn mắt, đột nhân xuất hiện một cánh tay tiếp nhận lấy chung trà kia.
Nhìn thấy người tới, trong mắt Thanh Huyền lộ ra chút kinh ngạc, sau đó nhanh chóng mừng rở: "Về Bình Đô khi nào?"
Dường như cố nhân xa cách đã lâu không gặp, Mai Thiều cũng không vội khách sáo trò chuyện cùng đối phương, mà chỉ cầm lấy chung trà bắt đầu pha trà theo trình tự, vừa nhìn liền cảm thấy y so với cái người "nửa chừng"(*) này thành thạo hơn nhiều.
(*) Gốc là 半路出家. Ý nói lúc đầu không định làm việc này, nhưng sau lại chuyển sang làm việc này
Thanh Huyền cũng không lên tiếng, cứ lẳng lặng mà nhìn Mai Thiều pha trà, sau một lúc, một chung trà ngon được đẩy lên trước mặt mình.
Thanh Huyền bưng lên thưởng thức mới nói: "Xuôi nam sáu năm, tay nghề vẫn còn tốt."
"Lúc trước, ngươi chính là xem thường tay nghề pha trà của ta nhất trong đám con cháu thế gia, cứ nói ta học đòi văn vẻ. BÂy giờ sao lại học theo rồi?"
"Ngoại trừ tế tự bói toán, Lạc Phong trai cũng xem như thanh tĩnh, suốt ngày rỗi rành không có gì làm nên mới tìm một số chuyện giết thời gian."
Lạc Phong trai qua yên tĩnh, ngay cả mặt trời cũng thường xuyên di chuyển chậm rất chậm soi đến đây, đặc biệt là đến mùa thu, từng chiếc lá cứ rơi rụng, ngay khi ôm chăn vào mộng cũng nghe thấy tiếng lá xào xạc.
Lúc mới tới đây, Thanh Huyền có chút không quen. Bên trong Lạc Phong trai chỉ có một mình hắn, ngày qua ngày đều là một mình hắn ngồi trong viện này mà qua. Qua một khoảng thời gian sống như vậy, khiến hắn từ từ nhớ tới nhưng ngày tháng trả ân báo thù kia, dần dần tôi luyện thành bản tính trầm ổn, không còn nghĩ tới chuyện xưa mà hãm sâu đau khổ nữa.
Ngày lại qua ngày, thứ ở bên cạnh chỉ có cây phong.
"Những năm gần đây khỏe không?"
Cả hai chào hỏi nhau xong liền bắt đầu im lặng, một lúc sau, cả hai lại đồng thanh lên tiếng hỏi, vô hình chung phá vỡ chút ngăn cách khiến cả hai cũng bất giác nở nụ cười.
Trong mắt Thanh Huyền ẩn chút ý cười: "Vất vả đến phương nam, đến một nơi xa xôi, ta không nghĩ tới ngươi sẽ chọn trở về."
"Chúng ta đã từng cảm thấy giang hồ này mênh mông, là một địa phương thích thú, cuối cùng vẫn lựa chọn rời đi." Mai Thiều xoay xoay chung trà trong tay: "Chỉ khác ở chỗ, ta đang đối mặt, còn ngươi vẫn trốn tránh. Qua nhiều năm như vậy ngươi vẫn chưa chịu buông xuống sau? Ngươi không chịu đếm xem buổi luận võ chọn rể của trưởng công chúa Cảnh Hòa, có phải là không dám đi gặp sư phụ ngươi, đi gặp đồng môn của ngươi đúng không, Hướng Vãn Địch?"
"Đúng vậy." Thanh Huyền thản nhiên trả lời, "Là chính ta không thể vượt qua tảng đá trong lòng, cảm thấy hổ thẹn với sư môn, còn là một sư đệ không ra gì, sao dám gặp lại."
Lần trước gặp mặt, hắn dùng danh tự "Hướng Vãn Địch", đeo thanh Bàn Long kiếm được Mai Thiều đưa đến bến đò, nói mình muốn rời khỏi sư môn, học hỏi kinh nghiệm trên giang hồ.
Phía dưới đất đúng lúc có trận mưa phùn, càng làm khung cảnh tiễn biệt bịn rịn có cảm xúc. Bọn họ đều ôm ấp lý tưởng hào hùng, không có chút cảm giác sầu bi gì, cho rằng buổi tiệc nào cũng phải tàn, cho nên không cần làm ra mấy chuyện thiếu tự nhiên.
Nhìn trong mắt Thanh Huyền trong mắt đã không còn ánh dương rực rỡ của ngày đó, Mai Thiều nhớ tới hai người bọn họ năm đó cũng từng ngồi đối mắt như vậy tại một quán rượu bình dân.
Khi đó hai người đều thiếu niên nhiệt huyết, không phục đối phương, thế nhưng có dùng võ công kiếm ra sao cũng khó phân cao thấp, thành ra cứ như vậy mà đánh tới khi mặt trời đều xuống núi, bầu trời bắt đầu rơi một tuyết lớn như lông ngỗng mới ngừng tay.
Hai người dắt dĩu nhau bước qua cơn gió bắc thổi phừng phực đi hồi lâu mới phát hiện quán rượu thôn dã, cách bày trì trong phòng cực kỳ đơn sơ, chỉ cắm một cây cờ ghi chữ "Tửu" có chút màu sắc ở cửa quán.
Trên chiếc bàn cũ nát, cả hai bưng chung trà sứt mẻ kia lên nhấm nháp rượu gạo còn ấm kia. Cả hai cứ lung tung uống cho no bụng, cho ấm dạ dày, bộ dạng hệt như lết từ trong đám ăn mày ra, quần áo rách rưới, tóc tai rối bời, khóe miệng còn dính tí rượu, khắp toàn thân, chỉ có con mắt sáng lấp lánh đang hiện lên bộ dạng cười sảng khoái của người trước mặt.
Cơn gió bắc lại khe khẽ luồn vào khe cửa, khi đó uống cạn vò rượu đục dân dã, tiếp tục giấc mộng to lớn ngông cuồng thuở thiếu thời.
Nay ngồi đối diện nhau, thế nhưng một thân áo bào cùng bạch y, một chung trà xanh, tự tin giữ lễ, trò chuyện cũng giữ phép.
Mai Thiều giơ lên nửa chung trà đã sớm nguội mời hắn: "Nhất thất túc thành thiên cổ hận."
Tạm dịch: một lần sảy chân để hận nghìn đời
Thanh Huyền nở nụ cười ngầm hiểu: "Tái hồi đầu dĩ bách niên thân."
Tạm dịch: khi quay đầu nhìn lại đã không còn hy vọng.
Bọn họ ai cũng không thể trở thành một kiếm khách phóng túng trên giang hồ, bệ nghễ thiên hạ.
Hai chung trà đụng nhau, một thanh âm nhỏ vang lên, đè xuống tâm tình trong lòng.