Chương : 40
Reginald Eliopolos hiện ra ở ngưỡng cửa, theo sau anh ta là hai đặc vụ cao lớn.
Từ trước đến giờ Rhyme cứ đinh ninh tay công tố viên trạc tuổi trung niên. Nhưng lần này trong ánh sáng ban ngày hình như anh ta cũng chỉ ngoài ba mươi một chút. Hai viên đặc vụ cũng còn trẻ măng và ăn mặc lịch sự không khác gì anh ta, nhưng nhìn họ chỉ khiến Rhyme liên tưởng đến mấy tay phu khuân vác trên bến tàu.
Chính xác thì anh ta cần họ làm gì nhỉ? Để khống chế một người đàn ông tàn phế nằm bẹp trên giường à?
“Chà, Lincoln, tôi đoán là anh đã không tin tôi khi tôi cảnh báo anh là sẽ có hậu quả xảy ra mà. Ừ hứ. Rõ ràng anh đã không tin tôi.”
“Anh đang lải nhải cái quái quỷ gì nữa, Reggie?”, Sellitto hỏi. “Chúng tôi đã tóm được hắn.”
“Ừ hứ... ừ hứ. Tôi sẽ cho các vị biết tôi đang...”, anh ta giơ tay lên và bắt đầu vẽ những dấu chấm hỏi tưởng tượng trong không khí, “... lải nhải cái gì nhé. Vụ án chống lại Hansen phăng teo rồi. Không có bằng chứng gì trong mấy cái túi bạt kia”.
“Đó không phải là lỗi của chúng tôi”, Sachs nói. “Chúng tôi đã giữ cho nhân chứng còn sống. Và còn bắt được tên giết người thuê của Hansen.”
“À”, Rhyme thốt lên, “nhưng đằng sau chuyện này còn nhiều vấn đề khác, đúng không, Reggie?”.
Tay trợ lý chưởng lý Mỹ lạnh lùng nhìn anh.
Rhyme nói tiếp,” Hiểu rồi, Jodie – ý tôi là tên Vũ công – là cơ hội duy nhất để họ có thể tiến hành truy tố Hansen lúc này. Hoặc ít nhất là anh bạn đây cũng nghĩ thế. Nhưng tên Vũ công sẽ không bao giờ bán đứng khách hàng”.
“Ôi, thật vậy sao? Chậc, thế thì anh không hiểu rõ hắn như anh vẫn tưởng đâu. Tôi vừa mới có cuộc nói chuyện dài với hắn. Hắn rất sẵn lòng khai ra Hansen. Chỉ có điều lúc này hắn đang cố tình chây lỳ. Vì anh đấy.”
“Tôi sao?” Rhyme hỏi.
“Hắn nói anh đã đe doạ hắn. Trong cuộc gặp trái phép do anh bố trí cách đây vài tiếng đồng hồ. Ừ hứ. Sẽ có nhiều cái đầu sắp rụng chỉ vì chuyện đó. Xin cứ yên tâm.”
“Ôi, vì Chúa”, Rhyme gầm lên, rồi bật cười phẫn nộ.”Chẳng lẽ anh không thấy hắn đang giở trò gì sao? Để tôi đoán nhé… anh nói với hắn là anh sẽ bắt tôi đúng không? Và hắn nói sẽ đồng ý ra làm chứng nếu anh làm thế.”
Ánh mắt lảng tránh của Eliopolos cho Rhyme biết là sự việc đã xảy ra chính xác như những gì anh vừa nói.
“Anh không hiểu sao?”
Nhưng Eliopolos chẳng hiểu quái gì hết.
Rhyme nói, “Chẳng lẽ anh không thấy là hắn muốn tôi cũng bị tống giam, xem nào, có thể là cách chỗ hắn chỉ 50, 60 feet?”.
“Rhyme”, Sachs thốt lên, mặt sa sầm vì lo sợ.
“Anh đang nói chuyện quái gì vậy?”, tay công tố viên hỏi.
“Hắn chỉ muốn giết tôi, Reggie. Đó là ý đồ của hắn. Tôi là người duy nhất từng ngăn chặn được hắn. Hắn sẽ không thể tiếp tục ra ngoài giết người nếu biết tôi còn đang ở đây.”
“Nhưng hắn sẽ không đi đâu. Không bao giờ.”
Ừ hứ.
Rhyme nói, “Sau khi tôi chết hắn sẽ phản cung. Hắn sẽ không bao giờ làm chứng chống lại Hansen. Và các anh định gây áp lực với hắn bằng cách nào đây? Doạ hắn bằng mũi kim tiêm thuốc độc à? Hắn sẽ không quan tâm. Hắn không sợ gì hết. Không sợ bất kỳ thứ gì”.
Cái gì đang khiến anh bồn chồn thế nhỉ? Rhyme tự hỏi. Trong chuyện này có gì đó không ổn. Rất không ổn.
Anh nhận ra đó chính là vì những quyển danh bạ điện thoại.
Danh bạ điện thoại và những hòn đá...
Rhyme đắm chìm trong suy nghĩ, mắt đăm đăm nhìn bảng sơ đồ bằng chứng trên tường. Anh nghe thấy tiếng lách cách và ngẩng đầu lên. Một trong hai viên đặc vụ đi cùng Eliopolos vừa rút phắt cái còng tay của mình ra và đang tiến về phía chiếc giường Clinitron. Rhyme bật cười với chính mình. Tốt nhất là cùm luôn cả đôi chân này đi. Không chúng lại chạy mất.
“Thôi đi, Reggie”, Sellitto nói.
Những sợi màu xanh, danh bạ điện thoại và mấy hòn đá.
Anh chợt nhớ đến điều gì đó tên Vũ công đã cho anh biết. Khi hắn ngồi trong đúng chiếc ghế Eliopolos đang đứng cạnh lúc này.
Một triệu đô la.
Rhyme cũng lờ mờ nhận ra viên đặc vụ đang cố nghĩ xem đâu là cách tốt nhất để khống chế một người tàn tật. Và anh cũng lờ mờ nhận ra Sachs đang bước lên phía trước cố nghĩ cách nào để khống chế tay đặc vụ. Bất thình lình anh quát, “Khoan đã”, bằng một giọng oai vệ làm tất cả mọi người trong phòng đứng ngây ra.
Những sợi màu xanh…
Anh trừng trừng nhìn chúng trên bảng sơ đồ.
Mọi người đang nói gì đó với anh. Viên đặc vụ vẫn đang dán mắt vào hai tay Rhyme, tay vung vẩy chiếc còng sáng loáng. Nhưng Rhyme phớt lờ tất cả. Anh nói với Eliopolos, “Hãy cho tôi nửa giờ”.
“Tại sao tôi phải làm thế?”
“Thôi đi, làm thế thì có hại gì chứ? Chẳng lẽ tôi còn trốn đi đâu được sao?” Và trước khi tay công tố viên kịp đồng ý, hay phản đối, Rhyme đã gào lên, “Thom! Thom, tôi cần gọi một cú điện thoại. Cậu có định giúp tôi hay không thì bảo? Nhiều lúc thật không biết là cậu ta đi đâu nữa. Lon, anh gọi giúp tôi nhé?”.
Percey Clay vừa mới quay về sau lễ mai táng chồng mình thì Lon Sellitto liên lạc với cô. Mặc đồ tang màu đen cô lặng lẽ ngồi trong chiếc ghế cầu kỳ đang bằng cành liễu gai bên cạnh giường Rhyme. Đứng gần đó là Roland Bell, mặc một bộ com lê màu nâu nhạt được cắt may rất tệ – do hai khẩu súng ngắn to đùng mà anh đeo trong người. Mái tóc nâu lơ thơ được anh chải lật ngược lên đỉnh đầu.
Elipolos đã bỏ đi, hai gã bặm trợn đi cùng anh ta đang đứng bên ngoài, canh gác hành lang. Hình như họ thực sự tin rằng, nếu có cơ hội, Thom sẽ tìm cách đẩy Rhyme ra ngoài cửa và anh sẽ thực hiện một cú đào tẩu trên chiếc xe lăn Storm Arrow, với tốc độ tối đa 7,5 dặm một giờ.
Chiếc váy dài của Percey thắt lại ở cổ và phần eo, Rhyme dám cá rằng đây là chiếc váy duy nhất mà cô từng sở hữu. Vừa ngồi xuống cô đã định vắt chân này lên đầu gối chân kia nhưng rồi kịp nhận ra một chiếc váy sẽ không thích hợp cho tư thế này nên cô đành ngồi thẳng dậy, hai đầu gối ngay ngắn đặt cạnh nhau.
Cô chằm chằm nhìn anh với một vẻ tò mò sốt ruột và Rhyme chợt nhận ra chưa một ai – Sellitto và Sachs, những người đưa cô đến đây – thông báo qua tình hình mới cho cô biết.
Lũ hèn nhát, Rhyme thầm càu nhàu.
“Percey… Họ sẽ không đặt vấn đề truy tố Hansen ra trước bồi thẩm đoàn.”
Thoạt đầu cô vụt thấy nhẹ hẳn người. Nhưng rồi cô chợt nhận ra ý nghĩa thật sự của thông tin đó. “Không!”, cô há hốc miệng.
“Chuyến bay của Hansen ấy? Để phi tang mấy cái túi bạt? Mấy cái túi chỉ là đồ giả. Bên trong không có gì hết.”
Mặt cô tái nhợt đi như một tàu lá héo. “Họ sẽ thả hắn sao?”
“Họ không tìm được mối liên hệ nào giữa tên vũ công và Hansen cả. Chừng nào chúng ta chưa tìm được, hắn vẫn sẽ tự do.”
Cô đưa hai tay lên ôm mặt. “Nếu vậy tất cả đều vô ích sao? Ed… Và Brit? Họ đã chết chẳng vì cái gì hết.”
Anh hỏi cô, “Bây giờ thì chuyện gì sẽ xảy ra với công ty của cô?”.
Percey không ngờ lại nhận được câu hỏi này. Cô không chắc là mình vừa nghe đúng. “Tôi xin lỗi?”
“Công ty của cô? Bây giờ thì chuyện gì sẽ xảy ra với Hudson Air?”
“Có lẽ chúng tôi sẽ bán nó. Chúng tôi vừa nhận được đề nghị mua lại của một công ty khác. Họ có thể đảm đương những khoản nợ. Chúng tôi thì không. Hoặc không thì chúng tôi chỉ cần bán thanh lý là xong.” Đó là lần đầu tiên anh nghe thấy giọng buông xuôi của cô. Một cô nàng Gypsy đầu hàng.
“Công ty nào thế?”
“Thực tình tôi cũng không nhớ nữa. Ron vẫn đang đàm phán với họ.”
“Đó là Ron Talbot, đúng không?”
“Vâng.”
“Liệu ông ta có biết rõ tình hình tài chính của công ty không?”
“Chắc chắn rồi. Cũng như các luật sư và kế toán. Nói chung là biết nhiều hơn tôi.”
“Cô có thể gọi cho ông ta, và yêu cầu ông ta tới đây càng sớm càng tốt được không?”
“Tôi nghĩ chắc là được. Lúc nãy anh ta vẫn đang ở ngoài nghĩa trang. Có lẽ bây giờ anh ta về nhà rồi. Để tôi gọi điện cho anh ta!”
“Còn Sachs này?”, anh nói, quay mặt về phía cô, “chúng ta vừa có thêm một hiện trường vụ án. Tôi cần cô kiểm tra. Càng nhanh càng tốt”.
Rhyme ngước nhìn người đàn ông to béo đang bước qua ngưỡng cửa, ông ta mặc một bộ com lê màu xanh thẫm. Bộ quần áo bóng loáng với màu sắc và cách may làm người ta liên tưởng đến một bộ đồng phục. Rhyme đoán đó là bộ đồ ông ta vẫn mặc khi còn được bay.
Percey giới thiệu hai người với nhau.
“Vậy là các vị đã tóm được thằng chó đẻ đó”, Talbot gầm gừ. “Hắn sẽ phải lên ghế điện chứ?”
“Tôi chỉ gom rác thôi”, Rhyme nói, thầm hài lòng hệt như mỗi lần anh nghĩ ra câu ví von thật cay độc nào đó. “Còn Chưởng lý quận muốn làm gì với nó là việc của ông ta. Percey đã kể với ông về việc chúng tôi đang gặp trục trặc với những bằng chứng buộc tội Hansen chưa?”
“Có, cô ấy có nói qua về chuyện đó. Những bằng chứng mà hắn phi tang là đồ giả sao? Tại sao hắn lại làm thế?”
“Tôi nghĩ tôi có thể trả lời câu hỏi đó, nhưng tôi cần thêm một số thông tin. Percey cho tôi biết là ông nắm rất rõ tình hình của Công ty. Ông cũng là đồng sở hữu, đúng không?”
Talbot gật đầu, rút ra một bao thuốc lá, nhìn quanh thấy trong phòng không có ai hút thuốc nên ông ta lại nhét nó vào túi áo. Ông ta thậm chí còn có vẻ to béo hơn Sellitto và có vẻ như đã khá lâu kể từ lần ông ta có thể đóng cúc áo khoác quanh cái bụng vĩ đại của mình.
“Tôi xin phép được hỏi ông điều này”, Rhyme nói. “Điều gì sẽ xảy ra nếu Hansen không muốn giết Ed và Percey bởi vì họ là nhân chứng?”
“Nhưng tại sao lại thế?”, Percey thốt lên.
Talbot hỏi, “Ý anh là hắn có động cơ khác sao? Như thế nào?”.
Rhyme không trả lời thẳng. “Percey cho tôi biết là thời gian qua Công ty làm ăn không được thuận lợi.”
Talbot nhún vai. “Hai năm vừa rồi cũng khó khăn. Sau khi Chính phủ bãi bỏ quy định đối với rất nhiều loại máy bay cỡ nhỏ. Chúng tôi phải cạnh tranh với các công ty UPS rồi FedEx. Cả ngành Bưu chính nữa. Thị phần thu hẹp dần.”
“Nhưng các vị vẫn có – từ gì ấy nhỉ, Fred? Anh đã từng điều tra một số vụ án kinh tế đúng không? Lượng tiền đổ về ấy. Thuật ngữ hay dùng là gì nhỉ?”
Dellray cười phá lên, “D-o-a-n-h thu, trời ạ Lincoln”.
“À. Các vị vẫn có doanh thu rất khá.”
Talbot gật đầu. “Ồ, dòng tiền mặt ra vào chưa bao giờ là vấn đề cả. Chỉ có điều lượng tiền bỏ ra lớn hơn lượng tiền thu về.”
“Vậy ông nghĩ thế nào về giả thuyết là tên vũ công được thuê giết hại Percey và Ed để kẻ chủ mưu có thể mua lại công ty với giá ưu đãi?”
“Công ty nào? Của chúng tôi ấy à?”, Percey cau mày hỏi.
“Tại sao Hansen lại làm thế?”, Talbot hỏi, và lại thở khò khè.
Percey nói thêm, “Vậy tại sao hắn không đến gặp thẳng chúng tôi với một tờ séc lớn? Thậm chí hắn còn chưa bao giờ tiếp cận chúng tôi”.
“Tôi không hề nói đó là Hansen”, Rhyme nói thẳng. “Câu hỏi mà tôi vừa đặt ra lúc trước là giả sử Hansen không muốn giết Ed và Carney thì sao? Giả sử đó là một người khác?”
“Ai”, Percey hỏi.
“Tôi không chắc lắm. Chỉ là... hừm, cái sợi màu xanh kia.”
“Sợi màu xanh?” Talbot nhìn theo ánh mắt của Rhyme về phía bảng sơ đồ bằng chứng.
“Có vẻ như mọi người đều đã quên mất nó. Trừ tôi.”
“Chẳng lẽ có người không bao giờ quên điều gì à? Anh thì sao, Lincoln?”
“Không quá thường xuyên đâu, Fred. Không quá thường xuyên. Mẫu sợi kia. Sachs – cộng sự của tôi.”
“Tôi nhớ cô rồi”, Talbot nói, gật đầu về phía cô.
“Cô ấy tìm thấy nó trong chiếc hangar mà Hansen thuê. Nó nằm lẫn trong một số vật chất vi lượng gần cửa sổ nơi Stephen Kall đã mai phục trước khi hắn gài quả bom lên máy bay của Ed Carney. Cô ấy còn tìm thấy những mẩu đồng vụn cùng với ít sợi màu trắng và hồ dán phong bì. Điều đó cho chúng ta biết là có kẻ đã để chìa khóa mở cửa vào hangar trong một chiếc phong bì ở đâu đó cho Kall. Nhưng rồi tôi chợt đặt câu hỏi – tại sao Kall phải cần đến chìa khóa để đột nhập vào một chiếc hangar trống trơn? Hắn là dân chuyên nghiệp. Ngay cả lúc ngủ hắn cũng có thể phá được cửa vào bên trong. Lý do duy nhất cho chiếc chìa khóa là khiến mọi người nghĩ chính Hansen để nó lại. Để đổ tội cho hắn.”
“Nhưng còn vụ cướp xe”, Talbot nói, “lần hắn giết mấy quân nhân và cướp số vũ khí đó. Mọi người đều biết hắn là kẻ giết người”.
“Ồ, có lẽ thế”, Rhyme đồng tình. “Nhưng hắn không phải là kẻ lái chiếc máy bay ra ngoài khơi Long Island và chơi trò thả bom bằng những quyển danh bạ điện thoại đó. Có kẻ khác đã làm.”
Percey sốt ruột ngọ nguậy.
Rhyme nói tiếp, “Kẻ này đã không nghĩ rằng chúng ta sẽ tìm thấy những chiếc túi bị phi tang”.
“Ai?”, Talbot gặng hỏi.
“Sachs?”
Cô rút ba cái phong bì lớn đựng bằng chứng từ trong túi vải ra và đặt chúng lên mặt bàn.
Bên trong hai phong bì là những sổ sách kế toán. Chiếc thứ ba chứa một tập phong bì màu trắng.
“Những thứ này được lấy từ văn phòng của ông, Talbot.”
Ông ta gượng cười. “Tôi không nghĩ các người có thể tự tiện lấy chúng mà chưa có lệnh khám.”
Percey Clay cau mày. “Chính tôi đã cho phép họ. Tôi vẫn còn là chủ tịch của công ty, Ron. Nhưng anh định nói gì vậy, Lincoln?”
Rhyme rất tiếc vì đã không chia sẻ mối nghi ngờ của mình với Percey từ trước; chuyện này đang xảy ra như một cú sốc khủng khiếp đối với cô. Nhưng anh không thể mạo hiểm với khả năng cô sẽ để lộ chuyện cho Talbot biết. Cho đến tận lúc này ông ta vẫn che đậy dấu vết của mình mới kỹ càng làm sao.
Rhyme liếc nhìn Mel Cooper, người kỹ thuật viên này nói, “Mẫu sợi màu xanh mà chúng tôi tìm thấy cùng những hạt bụi đồng của chiếc chìa khóa là từ một trang sổ kế toán. Còn những sợi màu trắng là của một cái phong bì. Không phải nghi ngờ gì nữa, chúng hoàn toàn trùng khớp”.
Rhyme nói tiếp, “Và tất cả đều từ văn phòng của ông, Talbot”.
“Ý anh là sao cơ, Lincoln?”, Percey há hốc miệng.
Rhyme nói với Talbot, “Tất cả mọi người ở sân bay đều biết là Hansen đang bị điều tra. Ông đã nảy ra ý nghĩ là có thể lợi dụng điều này. Vì thế ông đã đợi đến một đêm khi Percey và Ed cùng với Brit Hale ở lại làm việc muộn. Ông ăn trộm máy bay của Hansen để thực hiện chuyến bay kia, ông phi tang những chiếc túi bằng chứng giả. Ông thuê tên Vũ công. Tôi đoán ông đã nghe nói về hắn trong những lần ông làm việc ở châu Phi hoặc vùng Viễn Đông. Tôi đã gọi vài cuộc điện thoại. Ông từng làm việc cho lực lượng không quân Botswana và cho cả chính phủ Mianma, tư vấn cho họ về việc mua lại những chiếc máy bay quân sự đã qua sử dụng. Tên Vũ công cho tôi biết hắn được trả một triệu đô cho phi vụ này”. Rhyme lắc đầu. “Lẽ ra nghe như vậy là tôi phải đoán ra ngay. Hansen hoàn toàn có thể cho thủ tiêu cả ba nhân chứng mà chỉ mất có hai trăm nghìn đô la là cùng. Thời buổi này giết người chuyên nghiệp chắc chắn là một thị trường thừa hàng thiếu khách. Một triệu đô la cho tôi biết người chủ mưu vụ này là một kẻ nghiệp dư. Và hắn có rất nhiều tiền để tha hồ vung tay.”
Tiếng thét bật ra từ miệng Percey Clay và cô nhảy xổ vào ông ta. Talbot đứng bật dậy, và bước lùi lại. “Làm sao anh có thể”, cô gào lên. “Tại sao?”
Dellray nói, “Người của tôi ở bộ phận tội phạm tài chính đang tiến hành điều tra sổ sách của Công ty cô. Và chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ tìm ra nhiều và rất rất nhiều tiền không có ở nơi cần phải có”.
Rhyme nói tiếp, “Hudson Air làm ăn thành công hơn rất nhiều so với những gì cô nghĩ, Percey. Phần lớn lợi nhuận đó đều chảy vào túi của Talbot. Ông ta biết sớm muộn gì cũng sẽ có ngày ông ta bị phát hiện và ông ta cần phải loại bỏ cô cùng với Ed để tự mình mua lại Công ty”.
“Quyền mua lại cổ phần”, cô nhắc lại. “Với tư cách là một cổ đông, anh ta có quyền mua lại cổ phần của chúng tôi với giá ưu đãi trong trường hợp chúng tôi chết.”
“Chuyện này thật vớ vẩn. Tên đó còn bắn cả tôi nữa mà, xin nhớ cho.”
“Nhưng ông đâu có thuê Kall”, Rhyme nhắc ông ta. “Ông đã thuê Jodie – tên Vũ công Quan tài – và hắn lại thuê Kall làm thay mình. Mà tên Kall thì không hề biết ông.”
“Làm sao anh có thể?”, Percey lặp lại bằng giọng nói trống rỗng. “Tại sao? Tại sao?”
Talbot gầm lên, “Bởi vì tôi yêu em!”.
“Sao cơ?” Percey chết lặng.
Talbot nói tiếp. “Em đã phá lên cười khi tôi nói tôi muốn cưới em.”
“Ron, không. Tôi...”
“Và em quay lại với hắn.” Ông ta cười khẩy. “Ed Carney, chàng phi công lái máy bay chiến đấu đẹp trai. Phi công siêu đẳng[128]... Hắn đối xử với em không ra gì vậy mà em vẫn muốn hắn. Rồi…” Mặt ông ta tím bầm vì căm hận. “Rồi… tôi mất nốt điều cuối cùng tôi có – tôi bị đẩy xuống mặt đất. Tôi không còn được bay nữa. Tôi phải đứng nhìn hai người bổ sung vào nhật ký bay của mình hàng trăm giờ mỗi tháng trong khi tất cả những gì tôi có thể làm là ngồi ở bàn và cạo giấy. Hai người còn có nhau, còn được bay… Em hoàn toàn không biết cảm giác đánh mất tất cả những gì mình yêu quý là như thế nào đâu. Đơn giản là em chẳng biết gì hết!”
Sachs và Sellitto nhìn thấy ông ta căng người lên. Họ đã đoán ông ta đang định liều lĩnh làm gì đó nhưng không thể ngờ được Talbot lại khỏe đến thế. Đúng lúc Sachs vừa bước lên phía trước, chực rút súng ra khỏi bao, Talbot đã nhấc bổng cô nàng cảnh sát cao ngồng lên khỏi mặt đất và quăng cô vào chiếc bàn để bằng chứng, làm đổ tung tóe những chiếc kính hiển vi và thiết bị xung quanh, đẩy Mel Cooper bắn vào tường. Talbot giật khẩu Glock ra khỏi tay cô.
Ông ta vung khẩu súng về phía Bell, Sellitto và Dellray. “Được rồi, ném súng của các người xuống sàn. Làm ngay đi. Ngay lập tức!”
“Thôi nào, ông bạn”, Dellray nói và nheo mắt lại. “Ông định làm gì bây giờ? Trèo ra ngoài cửa sổ à? Ông sẽ không trốn được đâu.”
Ông ta gí khẩu súng vào sát mặt Dellray. “Tôi sẽ không nhắc lại lần nữa.”
Mắt ông ta long lên tuyệt vọng. Ông ta khiến Rhyme liên tưởng đến một con gấu bị dồn vào góc. Người đặc vụ và hai viên cảnh sát liệng súng của họ xuống sàn nhà. Bell vứt ra cả hai khẩu súng.
“Cánh cửa kia dẫn đi đâu?” Ông ta hất đầu về phía một bên tường. Ông ta đã thấy người của Eliopolos đứng gác bên ngoài và biết thừa mình không thể nào thoát được qua lối đó.
“Đó là một tủ để đồ”, Rhyeme nói nhanh.
Ông ta mở toang cửa và trừng trừng nhìn chiếc thang máy bé tí.
“Đồ khốn kiếp”, Talbot thì thầm, chĩa khẩu súng vào Rhyme.
“Không”, Sachs hét lên.
Talbot lại vung khẩu súng về phía cô.
“Ron”, Percey khấn nài, “Hãy nghĩ mà xem. Xin anh…”.
Sachs, hổ thẹn nhưng không bị thương, đã đứng dậy được và đưa mắt nhìn những khẩu súng ngắn nằm trên sàn nhà cách đó 10 feet.
Không, Sachs, Rhyme thầm nghĩ. Đừng!
Cô đã hạ được tên sát thủ chuyên nghiệp máu lạnh nhất nước Mỹ vậy mà giờ đây lại sắp bị bắn bởi một kẻ nghiệp dư đang hoảng sợ.
Mắt Talbot đảo lia lịa từ Dellray và Sellitto tới cửa thang máy, trong đầu suy tính xem bảng nút điểu khiển đặt ở đâu.
Không, Sachs, đừng làm thế.
Rhyme đang cố thu hút sự chú ý của cô nhưng mắt cô còn mải tập trung ước lượng khoảng cách và góc bắn. Cô sẽ không bao giờ hành động kịp.
Sellitto nói, “Chúng ta nói chuyện đã, Talbot. Thôi đi, hạ súng xuống”.
Xin cô, Sachs, đừng làm thế… Hắn sẽ nhìn thấy cô. Hắn sẽ nhắm bắn vào đầu – dân nghiệp dư luôn làm vậy – và cô sẽ chết.
Cô căng người, mắt dán chặt vào khẩu Sig-Sauer của Dellray.
Không…
Đúng lúc Talbot liếc mắt về phía chiếc thang máy Sachs nhào xuống sàn nhà và lăn người chộp lấy khẩu súng của Dellray. Nhưng Talbot đã nhìn thấy cô. Trước khi cô kịp cầm khẩu súng tự động nặng trịch lên, ông ta đã chĩa khẩu Glock vào mặt cô, nheo mắt lại và cuống cuồng bóp cò trong cơn hoảng loạn.
“Không!”, Rhyme thét lên.
Phát súng nổ đanh đến chói tai. Những ô cửa kính rung lên và hai con chim ưng bay vụt lên trời.
Sellitto nhào về phía trước chộp lấy vũ khí của mình. Cánh cửa vụt mở toang và hai đặc vụ của Eliopolos lao vào trong phòng, súng lăm lăm trên tay.
Ron Talbot, với một cái lỗ nhỏ tí màu đỏ trên thái dương, đứng khựng lại trong giây lát rồi lảo đảo đổ phịch xuống sàn.
“Ôi, chúa ơi”, Mel Cooper thì thầm, người anh như đông cứng tại chỗ, tay vẫn cầm khư khư một chiếc túi bằng chứng, mắt bàng hoàng nhìn xuống khẩu .38 Smith Wesson bóng loáng và nhỏ xíu của mình đang nằm gọn trong bàn tay vững vàng của Roland Bell, nòng súng thò ra từ bên cạnh khuỷu tay người kỹ thuật viên. “Ôi, chúa ơi.” Viên thám tử đã lẻn ra sau lưng Cooper và khẽ khàng rút khẩu súng ra khỏi chiếc bao nhỏ cài đằng sau thắt lưng người kỹ thuật viên từ lúc nào. Bell đã nổ súng từ bên hông – chính xác là từ bên hông Cooper.
Sachs đứng dậy và gỡ khẩu Glock của mình ra khỏi tay Talbot. Cô thử kiểm tra mạch, rồi lắc đầu.
Tiếng khóc đau đớn vang lên khắp căn phòng khi Percey Clay đổ gục xuống bên cạnh cái xác và vừa nức nở vừa giáng nắm đấm thùm thụp lên bờ vai lực lượng của Talbot. Không ai nhúc nhích suốt một lúc lâu. Rồi cả Amelia Sachs và Roland Bell cùng dợm bước tới gần cô. Họ ngập ngừng dừng lại và cuối cùng Sachs là người lùi ra để cho viên thám tử cao gầy choàng tay quanh người phụ nữ mảnh dẻ và đỡ cô đứng lên rời khỏi cái xác của kẻ từng là bạn, từng là kẻ thù của mình.
Chú thích
[128] Nguyên văn là "Top gun", xuất phát từ một bộ phim cùng tên của đạo diễn người Anh Tony Scott. Bộ phim xoay quanh quá trình huấn luyện những phi công chiến đấu của Hải quân Mỹ. Tất cả ganh đua, cạnh tranh với nhau vì danh hiệu "Top Gun".
Từ trước đến giờ Rhyme cứ đinh ninh tay công tố viên trạc tuổi trung niên. Nhưng lần này trong ánh sáng ban ngày hình như anh ta cũng chỉ ngoài ba mươi một chút. Hai viên đặc vụ cũng còn trẻ măng và ăn mặc lịch sự không khác gì anh ta, nhưng nhìn họ chỉ khiến Rhyme liên tưởng đến mấy tay phu khuân vác trên bến tàu.
Chính xác thì anh ta cần họ làm gì nhỉ? Để khống chế một người đàn ông tàn phế nằm bẹp trên giường à?
“Chà, Lincoln, tôi đoán là anh đã không tin tôi khi tôi cảnh báo anh là sẽ có hậu quả xảy ra mà. Ừ hứ. Rõ ràng anh đã không tin tôi.”
“Anh đang lải nhải cái quái quỷ gì nữa, Reggie?”, Sellitto hỏi. “Chúng tôi đã tóm được hắn.”
“Ừ hứ... ừ hứ. Tôi sẽ cho các vị biết tôi đang...”, anh ta giơ tay lên và bắt đầu vẽ những dấu chấm hỏi tưởng tượng trong không khí, “... lải nhải cái gì nhé. Vụ án chống lại Hansen phăng teo rồi. Không có bằng chứng gì trong mấy cái túi bạt kia”.
“Đó không phải là lỗi của chúng tôi”, Sachs nói. “Chúng tôi đã giữ cho nhân chứng còn sống. Và còn bắt được tên giết người thuê của Hansen.”
“À”, Rhyme thốt lên, “nhưng đằng sau chuyện này còn nhiều vấn đề khác, đúng không, Reggie?”.
Tay trợ lý chưởng lý Mỹ lạnh lùng nhìn anh.
Rhyme nói tiếp,” Hiểu rồi, Jodie – ý tôi là tên Vũ công – là cơ hội duy nhất để họ có thể tiến hành truy tố Hansen lúc này. Hoặc ít nhất là anh bạn đây cũng nghĩ thế. Nhưng tên Vũ công sẽ không bao giờ bán đứng khách hàng”.
“Ôi, thật vậy sao? Chậc, thế thì anh không hiểu rõ hắn như anh vẫn tưởng đâu. Tôi vừa mới có cuộc nói chuyện dài với hắn. Hắn rất sẵn lòng khai ra Hansen. Chỉ có điều lúc này hắn đang cố tình chây lỳ. Vì anh đấy.”
“Tôi sao?” Rhyme hỏi.
“Hắn nói anh đã đe doạ hắn. Trong cuộc gặp trái phép do anh bố trí cách đây vài tiếng đồng hồ. Ừ hứ. Sẽ có nhiều cái đầu sắp rụng chỉ vì chuyện đó. Xin cứ yên tâm.”
“Ôi, vì Chúa”, Rhyme gầm lên, rồi bật cười phẫn nộ.”Chẳng lẽ anh không thấy hắn đang giở trò gì sao? Để tôi đoán nhé… anh nói với hắn là anh sẽ bắt tôi đúng không? Và hắn nói sẽ đồng ý ra làm chứng nếu anh làm thế.”
Ánh mắt lảng tránh của Eliopolos cho Rhyme biết là sự việc đã xảy ra chính xác như những gì anh vừa nói.
“Anh không hiểu sao?”
Nhưng Eliopolos chẳng hiểu quái gì hết.
Rhyme nói, “Chẳng lẽ anh không thấy là hắn muốn tôi cũng bị tống giam, xem nào, có thể là cách chỗ hắn chỉ 50, 60 feet?”.
“Rhyme”, Sachs thốt lên, mặt sa sầm vì lo sợ.
“Anh đang nói chuyện quái gì vậy?”, tay công tố viên hỏi.
“Hắn chỉ muốn giết tôi, Reggie. Đó là ý đồ của hắn. Tôi là người duy nhất từng ngăn chặn được hắn. Hắn sẽ không thể tiếp tục ra ngoài giết người nếu biết tôi còn đang ở đây.”
“Nhưng hắn sẽ không đi đâu. Không bao giờ.”
Ừ hứ.
Rhyme nói, “Sau khi tôi chết hắn sẽ phản cung. Hắn sẽ không bao giờ làm chứng chống lại Hansen. Và các anh định gây áp lực với hắn bằng cách nào đây? Doạ hắn bằng mũi kim tiêm thuốc độc à? Hắn sẽ không quan tâm. Hắn không sợ gì hết. Không sợ bất kỳ thứ gì”.
Cái gì đang khiến anh bồn chồn thế nhỉ? Rhyme tự hỏi. Trong chuyện này có gì đó không ổn. Rất không ổn.
Anh nhận ra đó chính là vì những quyển danh bạ điện thoại.
Danh bạ điện thoại và những hòn đá...
Rhyme đắm chìm trong suy nghĩ, mắt đăm đăm nhìn bảng sơ đồ bằng chứng trên tường. Anh nghe thấy tiếng lách cách và ngẩng đầu lên. Một trong hai viên đặc vụ đi cùng Eliopolos vừa rút phắt cái còng tay của mình ra và đang tiến về phía chiếc giường Clinitron. Rhyme bật cười với chính mình. Tốt nhất là cùm luôn cả đôi chân này đi. Không chúng lại chạy mất.
“Thôi đi, Reggie”, Sellitto nói.
Những sợi màu xanh, danh bạ điện thoại và mấy hòn đá.
Anh chợt nhớ đến điều gì đó tên Vũ công đã cho anh biết. Khi hắn ngồi trong đúng chiếc ghế Eliopolos đang đứng cạnh lúc này.
Một triệu đô la.
Rhyme cũng lờ mờ nhận ra viên đặc vụ đang cố nghĩ xem đâu là cách tốt nhất để khống chế một người tàn tật. Và anh cũng lờ mờ nhận ra Sachs đang bước lên phía trước cố nghĩ cách nào để khống chế tay đặc vụ. Bất thình lình anh quát, “Khoan đã”, bằng một giọng oai vệ làm tất cả mọi người trong phòng đứng ngây ra.
Những sợi màu xanh…
Anh trừng trừng nhìn chúng trên bảng sơ đồ.
Mọi người đang nói gì đó với anh. Viên đặc vụ vẫn đang dán mắt vào hai tay Rhyme, tay vung vẩy chiếc còng sáng loáng. Nhưng Rhyme phớt lờ tất cả. Anh nói với Eliopolos, “Hãy cho tôi nửa giờ”.
“Tại sao tôi phải làm thế?”
“Thôi đi, làm thế thì có hại gì chứ? Chẳng lẽ tôi còn trốn đi đâu được sao?” Và trước khi tay công tố viên kịp đồng ý, hay phản đối, Rhyme đã gào lên, “Thom! Thom, tôi cần gọi một cú điện thoại. Cậu có định giúp tôi hay không thì bảo? Nhiều lúc thật không biết là cậu ta đi đâu nữa. Lon, anh gọi giúp tôi nhé?”.
Percey Clay vừa mới quay về sau lễ mai táng chồng mình thì Lon Sellitto liên lạc với cô. Mặc đồ tang màu đen cô lặng lẽ ngồi trong chiếc ghế cầu kỳ đang bằng cành liễu gai bên cạnh giường Rhyme. Đứng gần đó là Roland Bell, mặc một bộ com lê màu nâu nhạt được cắt may rất tệ – do hai khẩu súng ngắn to đùng mà anh đeo trong người. Mái tóc nâu lơ thơ được anh chải lật ngược lên đỉnh đầu.
Elipolos đã bỏ đi, hai gã bặm trợn đi cùng anh ta đang đứng bên ngoài, canh gác hành lang. Hình như họ thực sự tin rằng, nếu có cơ hội, Thom sẽ tìm cách đẩy Rhyme ra ngoài cửa và anh sẽ thực hiện một cú đào tẩu trên chiếc xe lăn Storm Arrow, với tốc độ tối đa 7,5 dặm một giờ.
Chiếc váy dài của Percey thắt lại ở cổ và phần eo, Rhyme dám cá rằng đây là chiếc váy duy nhất mà cô từng sở hữu. Vừa ngồi xuống cô đã định vắt chân này lên đầu gối chân kia nhưng rồi kịp nhận ra một chiếc váy sẽ không thích hợp cho tư thế này nên cô đành ngồi thẳng dậy, hai đầu gối ngay ngắn đặt cạnh nhau.
Cô chằm chằm nhìn anh với một vẻ tò mò sốt ruột và Rhyme chợt nhận ra chưa một ai – Sellitto và Sachs, những người đưa cô đến đây – thông báo qua tình hình mới cho cô biết.
Lũ hèn nhát, Rhyme thầm càu nhàu.
“Percey… Họ sẽ không đặt vấn đề truy tố Hansen ra trước bồi thẩm đoàn.”
Thoạt đầu cô vụt thấy nhẹ hẳn người. Nhưng rồi cô chợt nhận ra ý nghĩa thật sự của thông tin đó. “Không!”, cô há hốc miệng.
“Chuyến bay của Hansen ấy? Để phi tang mấy cái túi bạt? Mấy cái túi chỉ là đồ giả. Bên trong không có gì hết.”
Mặt cô tái nhợt đi như một tàu lá héo. “Họ sẽ thả hắn sao?”
“Họ không tìm được mối liên hệ nào giữa tên vũ công và Hansen cả. Chừng nào chúng ta chưa tìm được, hắn vẫn sẽ tự do.”
Cô đưa hai tay lên ôm mặt. “Nếu vậy tất cả đều vô ích sao? Ed… Và Brit? Họ đã chết chẳng vì cái gì hết.”
Anh hỏi cô, “Bây giờ thì chuyện gì sẽ xảy ra với công ty của cô?”.
Percey không ngờ lại nhận được câu hỏi này. Cô không chắc là mình vừa nghe đúng. “Tôi xin lỗi?”
“Công ty của cô? Bây giờ thì chuyện gì sẽ xảy ra với Hudson Air?”
“Có lẽ chúng tôi sẽ bán nó. Chúng tôi vừa nhận được đề nghị mua lại của một công ty khác. Họ có thể đảm đương những khoản nợ. Chúng tôi thì không. Hoặc không thì chúng tôi chỉ cần bán thanh lý là xong.” Đó là lần đầu tiên anh nghe thấy giọng buông xuôi của cô. Một cô nàng Gypsy đầu hàng.
“Công ty nào thế?”
“Thực tình tôi cũng không nhớ nữa. Ron vẫn đang đàm phán với họ.”
“Đó là Ron Talbot, đúng không?”
“Vâng.”
“Liệu ông ta có biết rõ tình hình tài chính của công ty không?”
“Chắc chắn rồi. Cũng như các luật sư và kế toán. Nói chung là biết nhiều hơn tôi.”
“Cô có thể gọi cho ông ta, và yêu cầu ông ta tới đây càng sớm càng tốt được không?”
“Tôi nghĩ chắc là được. Lúc nãy anh ta vẫn đang ở ngoài nghĩa trang. Có lẽ bây giờ anh ta về nhà rồi. Để tôi gọi điện cho anh ta!”
“Còn Sachs này?”, anh nói, quay mặt về phía cô, “chúng ta vừa có thêm một hiện trường vụ án. Tôi cần cô kiểm tra. Càng nhanh càng tốt”.
Rhyme ngước nhìn người đàn ông to béo đang bước qua ngưỡng cửa, ông ta mặc một bộ com lê màu xanh thẫm. Bộ quần áo bóng loáng với màu sắc và cách may làm người ta liên tưởng đến một bộ đồng phục. Rhyme đoán đó là bộ đồ ông ta vẫn mặc khi còn được bay.
Percey giới thiệu hai người với nhau.
“Vậy là các vị đã tóm được thằng chó đẻ đó”, Talbot gầm gừ. “Hắn sẽ phải lên ghế điện chứ?”
“Tôi chỉ gom rác thôi”, Rhyme nói, thầm hài lòng hệt như mỗi lần anh nghĩ ra câu ví von thật cay độc nào đó. “Còn Chưởng lý quận muốn làm gì với nó là việc của ông ta. Percey đã kể với ông về việc chúng tôi đang gặp trục trặc với những bằng chứng buộc tội Hansen chưa?”
“Có, cô ấy có nói qua về chuyện đó. Những bằng chứng mà hắn phi tang là đồ giả sao? Tại sao hắn lại làm thế?”
“Tôi nghĩ tôi có thể trả lời câu hỏi đó, nhưng tôi cần thêm một số thông tin. Percey cho tôi biết là ông nắm rất rõ tình hình của Công ty. Ông cũng là đồng sở hữu, đúng không?”
Talbot gật đầu, rút ra một bao thuốc lá, nhìn quanh thấy trong phòng không có ai hút thuốc nên ông ta lại nhét nó vào túi áo. Ông ta thậm chí còn có vẻ to béo hơn Sellitto và có vẻ như đã khá lâu kể từ lần ông ta có thể đóng cúc áo khoác quanh cái bụng vĩ đại của mình.
“Tôi xin phép được hỏi ông điều này”, Rhyme nói. “Điều gì sẽ xảy ra nếu Hansen không muốn giết Ed và Percey bởi vì họ là nhân chứng?”
“Nhưng tại sao lại thế?”, Percey thốt lên.
Talbot hỏi, “Ý anh là hắn có động cơ khác sao? Như thế nào?”.
Rhyme không trả lời thẳng. “Percey cho tôi biết là thời gian qua Công ty làm ăn không được thuận lợi.”
Talbot nhún vai. “Hai năm vừa rồi cũng khó khăn. Sau khi Chính phủ bãi bỏ quy định đối với rất nhiều loại máy bay cỡ nhỏ. Chúng tôi phải cạnh tranh với các công ty UPS rồi FedEx. Cả ngành Bưu chính nữa. Thị phần thu hẹp dần.”
“Nhưng các vị vẫn có – từ gì ấy nhỉ, Fred? Anh đã từng điều tra một số vụ án kinh tế đúng không? Lượng tiền đổ về ấy. Thuật ngữ hay dùng là gì nhỉ?”
Dellray cười phá lên, “D-o-a-n-h thu, trời ạ Lincoln”.
“À. Các vị vẫn có doanh thu rất khá.”
Talbot gật đầu. “Ồ, dòng tiền mặt ra vào chưa bao giờ là vấn đề cả. Chỉ có điều lượng tiền bỏ ra lớn hơn lượng tiền thu về.”
“Vậy ông nghĩ thế nào về giả thuyết là tên vũ công được thuê giết hại Percey và Ed để kẻ chủ mưu có thể mua lại công ty với giá ưu đãi?”
“Công ty nào? Của chúng tôi ấy à?”, Percey cau mày hỏi.
“Tại sao Hansen lại làm thế?”, Talbot hỏi, và lại thở khò khè.
Percey nói thêm, “Vậy tại sao hắn không đến gặp thẳng chúng tôi với một tờ séc lớn? Thậm chí hắn còn chưa bao giờ tiếp cận chúng tôi”.
“Tôi không hề nói đó là Hansen”, Rhyme nói thẳng. “Câu hỏi mà tôi vừa đặt ra lúc trước là giả sử Hansen không muốn giết Ed và Carney thì sao? Giả sử đó là một người khác?”
“Ai”, Percey hỏi.
“Tôi không chắc lắm. Chỉ là... hừm, cái sợi màu xanh kia.”
“Sợi màu xanh?” Talbot nhìn theo ánh mắt của Rhyme về phía bảng sơ đồ bằng chứng.
“Có vẻ như mọi người đều đã quên mất nó. Trừ tôi.”
“Chẳng lẽ có người không bao giờ quên điều gì à? Anh thì sao, Lincoln?”
“Không quá thường xuyên đâu, Fred. Không quá thường xuyên. Mẫu sợi kia. Sachs – cộng sự của tôi.”
“Tôi nhớ cô rồi”, Talbot nói, gật đầu về phía cô.
“Cô ấy tìm thấy nó trong chiếc hangar mà Hansen thuê. Nó nằm lẫn trong một số vật chất vi lượng gần cửa sổ nơi Stephen Kall đã mai phục trước khi hắn gài quả bom lên máy bay của Ed Carney. Cô ấy còn tìm thấy những mẩu đồng vụn cùng với ít sợi màu trắng và hồ dán phong bì. Điều đó cho chúng ta biết là có kẻ đã để chìa khóa mở cửa vào hangar trong một chiếc phong bì ở đâu đó cho Kall. Nhưng rồi tôi chợt đặt câu hỏi – tại sao Kall phải cần đến chìa khóa để đột nhập vào một chiếc hangar trống trơn? Hắn là dân chuyên nghiệp. Ngay cả lúc ngủ hắn cũng có thể phá được cửa vào bên trong. Lý do duy nhất cho chiếc chìa khóa là khiến mọi người nghĩ chính Hansen để nó lại. Để đổ tội cho hắn.”
“Nhưng còn vụ cướp xe”, Talbot nói, “lần hắn giết mấy quân nhân và cướp số vũ khí đó. Mọi người đều biết hắn là kẻ giết người”.
“Ồ, có lẽ thế”, Rhyme đồng tình. “Nhưng hắn không phải là kẻ lái chiếc máy bay ra ngoài khơi Long Island và chơi trò thả bom bằng những quyển danh bạ điện thoại đó. Có kẻ khác đã làm.”
Percey sốt ruột ngọ nguậy.
Rhyme nói tiếp, “Kẻ này đã không nghĩ rằng chúng ta sẽ tìm thấy những chiếc túi bị phi tang”.
“Ai?”, Talbot gặng hỏi.
“Sachs?”
Cô rút ba cái phong bì lớn đựng bằng chứng từ trong túi vải ra và đặt chúng lên mặt bàn.
Bên trong hai phong bì là những sổ sách kế toán. Chiếc thứ ba chứa một tập phong bì màu trắng.
“Những thứ này được lấy từ văn phòng của ông, Talbot.”
Ông ta gượng cười. “Tôi không nghĩ các người có thể tự tiện lấy chúng mà chưa có lệnh khám.”
Percey Clay cau mày. “Chính tôi đã cho phép họ. Tôi vẫn còn là chủ tịch của công ty, Ron. Nhưng anh định nói gì vậy, Lincoln?”
Rhyme rất tiếc vì đã không chia sẻ mối nghi ngờ của mình với Percey từ trước; chuyện này đang xảy ra như một cú sốc khủng khiếp đối với cô. Nhưng anh không thể mạo hiểm với khả năng cô sẽ để lộ chuyện cho Talbot biết. Cho đến tận lúc này ông ta vẫn che đậy dấu vết của mình mới kỹ càng làm sao.
Rhyme liếc nhìn Mel Cooper, người kỹ thuật viên này nói, “Mẫu sợi màu xanh mà chúng tôi tìm thấy cùng những hạt bụi đồng của chiếc chìa khóa là từ một trang sổ kế toán. Còn những sợi màu trắng là của một cái phong bì. Không phải nghi ngờ gì nữa, chúng hoàn toàn trùng khớp”.
Rhyme nói tiếp, “Và tất cả đều từ văn phòng của ông, Talbot”.
“Ý anh là sao cơ, Lincoln?”, Percey há hốc miệng.
Rhyme nói với Talbot, “Tất cả mọi người ở sân bay đều biết là Hansen đang bị điều tra. Ông đã nảy ra ý nghĩ là có thể lợi dụng điều này. Vì thế ông đã đợi đến một đêm khi Percey và Ed cùng với Brit Hale ở lại làm việc muộn. Ông ăn trộm máy bay của Hansen để thực hiện chuyến bay kia, ông phi tang những chiếc túi bằng chứng giả. Ông thuê tên Vũ công. Tôi đoán ông đã nghe nói về hắn trong những lần ông làm việc ở châu Phi hoặc vùng Viễn Đông. Tôi đã gọi vài cuộc điện thoại. Ông từng làm việc cho lực lượng không quân Botswana và cho cả chính phủ Mianma, tư vấn cho họ về việc mua lại những chiếc máy bay quân sự đã qua sử dụng. Tên Vũ công cho tôi biết hắn được trả một triệu đô cho phi vụ này”. Rhyme lắc đầu. “Lẽ ra nghe như vậy là tôi phải đoán ra ngay. Hansen hoàn toàn có thể cho thủ tiêu cả ba nhân chứng mà chỉ mất có hai trăm nghìn đô la là cùng. Thời buổi này giết người chuyên nghiệp chắc chắn là một thị trường thừa hàng thiếu khách. Một triệu đô la cho tôi biết người chủ mưu vụ này là một kẻ nghiệp dư. Và hắn có rất nhiều tiền để tha hồ vung tay.”
Tiếng thét bật ra từ miệng Percey Clay và cô nhảy xổ vào ông ta. Talbot đứng bật dậy, và bước lùi lại. “Làm sao anh có thể”, cô gào lên. “Tại sao?”
Dellray nói, “Người của tôi ở bộ phận tội phạm tài chính đang tiến hành điều tra sổ sách của Công ty cô. Và chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ tìm ra nhiều và rất rất nhiều tiền không có ở nơi cần phải có”.
Rhyme nói tiếp, “Hudson Air làm ăn thành công hơn rất nhiều so với những gì cô nghĩ, Percey. Phần lớn lợi nhuận đó đều chảy vào túi của Talbot. Ông ta biết sớm muộn gì cũng sẽ có ngày ông ta bị phát hiện và ông ta cần phải loại bỏ cô cùng với Ed để tự mình mua lại Công ty”.
“Quyền mua lại cổ phần”, cô nhắc lại. “Với tư cách là một cổ đông, anh ta có quyền mua lại cổ phần của chúng tôi với giá ưu đãi trong trường hợp chúng tôi chết.”
“Chuyện này thật vớ vẩn. Tên đó còn bắn cả tôi nữa mà, xin nhớ cho.”
“Nhưng ông đâu có thuê Kall”, Rhyme nhắc ông ta. “Ông đã thuê Jodie – tên Vũ công Quan tài – và hắn lại thuê Kall làm thay mình. Mà tên Kall thì không hề biết ông.”
“Làm sao anh có thể?”, Percey lặp lại bằng giọng nói trống rỗng. “Tại sao? Tại sao?”
Talbot gầm lên, “Bởi vì tôi yêu em!”.
“Sao cơ?” Percey chết lặng.
Talbot nói tiếp. “Em đã phá lên cười khi tôi nói tôi muốn cưới em.”
“Ron, không. Tôi...”
“Và em quay lại với hắn.” Ông ta cười khẩy. “Ed Carney, chàng phi công lái máy bay chiến đấu đẹp trai. Phi công siêu đẳng[128]... Hắn đối xử với em không ra gì vậy mà em vẫn muốn hắn. Rồi…” Mặt ông ta tím bầm vì căm hận. “Rồi… tôi mất nốt điều cuối cùng tôi có – tôi bị đẩy xuống mặt đất. Tôi không còn được bay nữa. Tôi phải đứng nhìn hai người bổ sung vào nhật ký bay của mình hàng trăm giờ mỗi tháng trong khi tất cả những gì tôi có thể làm là ngồi ở bàn và cạo giấy. Hai người còn có nhau, còn được bay… Em hoàn toàn không biết cảm giác đánh mất tất cả những gì mình yêu quý là như thế nào đâu. Đơn giản là em chẳng biết gì hết!”
Sachs và Sellitto nhìn thấy ông ta căng người lên. Họ đã đoán ông ta đang định liều lĩnh làm gì đó nhưng không thể ngờ được Talbot lại khỏe đến thế. Đúng lúc Sachs vừa bước lên phía trước, chực rút súng ra khỏi bao, Talbot đã nhấc bổng cô nàng cảnh sát cao ngồng lên khỏi mặt đất và quăng cô vào chiếc bàn để bằng chứng, làm đổ tung tóe những chiếc kính hiển vi và thiết bị xung quanh, đẩy Mel Cooper bắn vào tường. Talbot giật khẩu Glock ra khỏi tay cô.
Ông ta vung khẩu súng về phía Bell, Sellitto và Dellray. “Được rồi, ném súng của các người xuống sàn. Làm ngay đi. Ngay lập tức!”
“Thôi nào, ông bạn”, Dellray nói và nheo mắt lại. “Ông định làm gì bây giờ? Trèo ra ngoài cửa sổ à? Ông sẽ không trốn được đâu.”
Ông ta gí khẩu súng vào sát mặt Dellray. “Tôi sẽ không nhắc lại lần nữa.”
Mắt ông ta long lên tuyệt vọng. Ông ta khiến Rhyme liên tưởng đến một con gấu bị dồn vào góc. Người đặc vụ và hai viên cảnh sát liệng súng của họ xuống sàn nhà. Bell vứt ra cả hai khẩu súng.
“Cánh cửa kia dẫn đi đâu?” Ông ta hất đầu về phía một bên tường. Ông ta đã thấy người của Eliopolos đứng gác bên ngoài và biết thừa mình không thể nào thoát được qua lối đó.
“Đó là một tủ để đồ”, Rhyeme nói nhanh.
Ông ta mở toang cửa và trừng trừng nhìn chiếc thang máy bé tí.
“Đồ khốn kiếp”, Talbot thì thầm, chĩa khẩu súng vào Rhyme.
“Không”, Sachs hét lên.
Talbot lại vung khẩu súng về phía cô.
“Ron”, Percey khấn nài, “Hãy nghĩ mà xem. Xin anh…”.
Sachs, hổ thẹn nhưng không bị thương, đã đứng dậy được và đưa mắt nhìn những khẩu súng ngắn nằm trên sàn nhà cách đó 10 feet.
Không, Sachs, Rhyme thầm nghĩ. Đừng!
Cô đã hạ được tên sát thủ chuyên nghiệp máu lạnh nhất nước Mỹ vậy mà giờ đây lại sắp bị bắn bởi một kẻ nghiệp dư đang hoảng sợ.
Mắt Talbot đảo lia lịa từ Dellray và Sellitto tới cửa thang máy, trong đầu suy tính xem bảng nút điểu khiển đặt ở đâu.
Không, Sachs, đừng làm thế.
Rhyme đang cố thu hút sự chú ý của cô nhưng mắt cô còn mải tập trung ước lượng khoảng cách và góc bắn. Cô sẽ không bao giờ hành động kịp.
Sellitto nói, “Chúng ta nói chuyện đã, Talbot. Thôi đi, hạ súng xuống”.
Xin cô, Sachs, đừng làm thế… Hắn sẽ nhìn thấy cô. Hắn sẽ nhắm bắn vào đầu – dân nghiệp dư luôn làm vậy – và cô sẽ chết.
Cô căng người, mắt dán chặt vào khẩu Sig-Sauer của Dellray.
Không…
Đúng lúc Talbot liếc mắt về phía chiếc thang máy Sachs nhào xuống sàn nhà và lăn người chộp lấy khẩu súng của Dellray. Nhưng Talbot đã nhìn thấy cô. Trước khi cô kịp cầm khẩu súng tự động nặng trịch lên, ông ta đã chĩa khẩu Glock vào mặt cô, nheo mắt lại và cuống cuồng bóp cò trong cơn hoảng loạn.
“Không!”, Rhyme thét lên.
Phát súng nổ đanh đến chói tai. Những ô cửa kính rung lên và hai con chim ưng bay vụt lên trời.
Sellitto nhào về phía trước chộp lấy vũ khí của mình. Cánh cửa vụt mở toang và hai đặc vụ của Eliopolos lao vào trong phòng, súng lăm lăm trên tay.
Ron Talbot, với một cái lỗ nhỏ tí màu đỏ trên thái dương, đứng khựng lại trong giây lát rồi lảo đảo đổ phịch xuống sàn.
“Ôi, chúa ơi”, Mel Cooper thì thầm, người anh như đông cứng tại chỗ, tay vẫn cầm khư khư một chiếc túi bằng chứng, mắt bàng hoàng nhìn xuống khẩu .38 Smith Wesson bóng loáng và nhỏ xíu của mình đang nằm gọn trong bàn tay vững vàng của Roland Bell, nòng súng thò ra từ bên cạnh khuỷu tay người kỹ thuật viên. “Ôi, chúa ơi.” Viên thám tử đã lẻn ra sau lưng Cooper và khẽ khàng rút khẩu súng ra khỏi chiếc bao nhỏ cài đằng sau thắt lưng người kỹ thuật viên từ lúc nào. Bell đã nổ súng từ bên hông – chính xác là từ bên hông Cooper.
Sachs đứng dậy và gỡ khẩu Glock của mình ra khỏi tay Talbot. Cô thử kiểm tra mạch, rồi lắc đầu.
Tiếng khóc đau đớn vang lên khắp căn phòng khi Percey Clay đổ gục xuống bên cạnh cái xác và vừa nức nở vừa giáng nắm đấm thùm thụp lên bờ vai lực lượng của Talbot. Không ai nhúc nhích suốt một lúc lâu. Rồi cả Amelia Sachs và Roland Bell cùng dợm bước tới gần cô. Họ ngập ngừng dừng lại và cuối cùng Sachs là người lùi ra để cho viên thám tử cao gầy choàng tay quanh người phụ nữ mảnh dẻ và đỡ cô đứng lên rời khỏi cái xác của kẻ từng là bạn, từng là kẻ thù của mình.
Chú thích
[128] Nguyên văn là "Top gun", xuất phát từ một bộ phim cùng tên của đạo diễn người Anh Tony Scott. Bộ phim xoay quanh quá trình huấn luyện những phi công chiến đấu của Hải quân Mỹ. Tất cả ganh đua, cạnh tranh với nhau vì danh hiệu "Top Gun".